Sau cuộc gặp Bác Hồ ở Pháp năm 1946, người trí thức Phạm Quang Lễ đã quyết định từ bỏ mức lương 22 lạng vàng (quy đổi hiện nay là khoảng 1,1 tỷ đồng) mỗi tháng tại Pháp để theo Bác Hồ trở về Tổ quốc làm việc đại nghĩa. Ông đã có những phát minh làm lay chuyển cục diện chiến trường!
Giáo sư Trần Đại Nghĩa là nhà khoa học, kỹ sư quân sự, tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, người đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng ngành khoa học kỹ thuật quân sự và công nghiệp quốc phòng.
🇻🇳 TỪ BỎ MỨC LƯƠNG 22 LẠNG VÀNG THEO BÁC TRỞ VỀ TỔ QUỐC LÀM VIỆC ĐẠI NGHĨA
Giáo sư Trần Đại Nghĩa tên thật là Phạm Quang Lễ. Ông sinh ngày 13 tháng 9 năm 1913 tại tỉnh Vĩnh Long. Năm 1935, Phạm Quang Lễ sang Pháp du học khi tròn 22 tuổi. Năm 1940, Phạm Quang Lễ nhận gần như cùng một lúc ba bằng: Kỹ sư cầu đường, Kỹ sư điện và Cử nhân toán. Sau đó, ông học tiếp và nhận thêm ba bằng kỹ sư khác bao gồm: Hàng không, Mỏ - Địa chất và Chế tạo máy. Sau đó ông ở lại Pháp làm việc tại Viện nghiên cứu Máy bay, rồi sang Đức làm việc trong xưởng chế tạo máy bay và Viện nghiên cứu vũ khí.
Ngày 22/6/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Pháp với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp, hay tin, ông đã đến sân bay Le Bourget để chào đón Người.
Được bác sĩ Hoàng Xuân Mãn (em ruột Giáo sư Hoàng Xuân Hãn), Chủ tịch Hội Việt kiều ở Pháp giới thiệu, ông được tiếp kiến Bác. Sau đó, nhiều lần ông được tháp tùng Bác đi thăm nói chuyện với Việt kiều. Những ngày ở gần Bác, ông đã cảm phục và quý mến vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Trí tuệ, và sự uyên thâm của Bác đã cho ông một niềm tin để đi theo Người thực hiện hoài bão lớn ấp ủ bấy lâu.
Có lần Bác hỏi: “Nguyện vọng của chú lúc này là gì?”. Ông đã trả lời rất nhanh: “Dạ thưa, nguyện vọng cao nhất của cháu là được trở về Tổ quốc cống hiến hết năng lực và tinh thần”. Những lần sau, khi nói chuyện với Bác, ông đã chia sẻ những điều ông học được và 30.000 trang tài liệu về vũ khí ông thu thập được. Bác nói ông cần giữ kín để tránh phiền hà về sau.
Hội nghị Fontainebleau không thành, sau khi ký bản Tạm ước với 14/9/1946 với Pháp, Bác đã cho gọi Phạm Quang Lễ: “Bác sắp về nước, chú chuẩn bị để vài ngày nữa chúng ta lên đường về nước. Chú sẵn sàng chưa?”. Ông sung sướng trả lời: “Thưa Bác, cháu đã sẵn sàng”.
Ngày 19/9/1946, ông về nước cùng Bác trên chiến hạm Dumont d’Urville từ cảng Toulon và mang theo 1 tấn tài liệu được đóng hòm dán nhãn “ngoại giao”.
Tháng 12/1946, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao giữ trọng trách: Cục trưởng Cục Quân giới - Bộ Quốc phòng (nay là Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam) kiêm Giám đốc Nha nghiên cứu Quân giới - Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội (nay là Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự).
Cùng nhiệm vụ được giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên cho ông là Trần Đại Nghĩa, và từ đây cái tên Trần Đại Nghĩa ra đời và gắn bó với ông trọn đời. Báo Công an nhân dân, ngày 10/02/2011, trích dẫn lời Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau: “Một là, họ Trần là họ của danh tướng Trần Hưng Đạo. Hai là, Đại Nghĩa là nghĩa lớn để chú nhớ đến nhiệm vụ của mình với nhân dân, với đất nước”.
🇻🇳 NHỮNG PHÁT MINH LÀM LAY CHUYỂN CỤC DIỆN CHIẾN TRƯỜNG
Ngay sau khi trở về nước, Phạm Quang Lễ được cử lên xưởng quân giới Giang Tiên ở Thái Nguyên tham gia nghiên cứu chế tạo súng chống tăng theo mẫu Bazooka của Mỹ với hai viên đạn dự trữ do Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu cung cấp.
Từ những kiến thức thu thập được qua các tài liệu mật ở nước ngoài, với trình độ cử nhân toán cao cấp, ông và các đồng chí của mình đã chế thử thành công Bazooka (B60), sau đó ông hoàn chỉnh bản vẽ chi tiết và chuyển đến các xưởng quân giới ở Việt Bắc.
Đầu tháng 3/1947, súng Bazooka đã lập chiến công đầu tiên. 10 quả đạn và 3 khẩu súng chuyển về Trung đoàn Thủ đô do tướng Vương Thừa Vũ chỉ huy đã bắn cháy 2 xe tăng của thực dân Pháp tại chùa Trầm, Quốc Oai (Hà Tây cũ) khi chúng đánh chiếm thị xã Hà Đông.
Đến tháng 4/1947, Bazooka đi vào sản xuất hàng loạt, gửi các chiến trường.
Ghi nhận cống hiến của Trần Đại Nghĩa, trong đợt phong tướng đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 117-SL ngày 25/1/1948, phong ông quân hàm thiếu tướng.
🇻🇳 CHẾ TẠO THÀNH CÔNG VŨ KHÍ KHIẾN QUÂN PHÁP KHIẾP SỢ
Trong những năm tháng gian khổ ấy, ta chưa có dàn phóng đạn Cachiusa nên ông Nghĩa chỉ mơ ước làm sao chế tạo cho được loại súng mà bộ đội ta có thể vác vai nhưng có sức công phá ngang cỗ đại bác nặng 6 tấn, có khả năng tiêu diệt các boong ke, lô cốt kiểu mới của địch. Ông đã cùng các kỹ sư Hoàng Đình Phu, Bùi Minh Tiêu, Nguyễn Trinh Tiếp, Phạm Đồng Điện, Nguyễn Văn Hường... nghiên cứu loại vũ khí tương đương của Mỹ dùng tấn công lên đảo Okinawa (Nhật Bản).
Thế rồi, SKZ 60 (viết tắt “súng không giật”) của Việt Nam ra đời. Đây là loại vũ khí công đồn nặng khoảng 26 kg, có thể tháo rời để mang vác, đầu đạn nặng khoảng 9 kg, có thể xuyên thủng bê tông dày trên 60 cm, khi bắn ở cự ly tối ưu.
SKZ 60 được ứng dụng ngay trên chiến trường và lần đầu lập chiến công xuất sắc, phá tan boong ke kiên cố của giặc Pháp trong chiến thắng ở Phố Ràng, chiến thắng Phố Lu trong chiến dịch Lê Hồng Phong cuối năm 1949.
SKZ đã làm giặc Pháp khiếp sợ. Trong cuốn Chiến tranh Đông Dương, xuất bản tại Paris năm 1963, ký giả Lucien Bodart viết: "Cái thứ gây khó khăn cho chúng tôi, cái thứ xuyên thủng bêtông dày 60 cm là những quả đạn SKZ 8kg mà người Việt chế tạo trong các hang núi ở Đông Dương. Chỉ cần vài quả là đã tiêu diệt được tháp canh của chúng tôi".
Bên cạnh chế tạo súng, ông còn chỉ đạo anh em Cục Quân giới chế tạo bom bay. Đầu năm 1948, sau gần 3 tháng nghiên cứu thành công, bom bay do Việt Nam chế tạo ra đời. Đầu năm 1949, bộ đội ta bắn thử loại bom này. Khi bắn quả đạn bay qua sông Hồng rơi đúng vào trung tâm chỉ huy của Pháp ở Bác Cổ. Tuy thiệt hại vật chất không lớn, nhưng loại bom này đã khiến quân Pháp khiếp sợ hoang mang.
Ngoài chế tạo vũ khí, ông còn mở nhiều lớp đào tạo kỹ thuật vũ khí và trực tiếp đứng lớp. Qua các bài giảng, ông đã trang bị cho anh em những kiến thức cơ bản về kỹ thuật vũ khí. Hầu hết học viên do ông đào tạo sau này đều là những cán bộ chủ chốt.
Sau 3 năm được giao nhiệm vụ “lo vũ khí cho bộ đội”, thiếu tướng Trần Đại Nghĩa đưa ngành quân giới non trẻ phát triển mạnh mẽ. Những vũ khí Cục quân giới chế tạo đã góp phần quan trọng để bộ đội ta giành thắng lợi trên các chiến trường, đặc biệt là chiến dịch biên giới 1950. Năm 1952 tại Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua lần thứ nhất ông được vinh danh Anh hùng lực lượng vũ trang.
Sau chiến thắng Điện Biên phủ, Hiệp định Genève ký kết, Trần Đại Nghĩa được cử làm Thứ trưởng Bộ Công thương. Năm 1966, trước sự leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, ông được điều động trở lại phục vụ quân đội với cương vị là Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, chuyên trách về mặt kỹ thuật vũ khí quốc phòng. Ông đã có nhiều đóng góp lớn trong việc tìm biện pháp kỹ thuật chống chiến tranh phá hoại, phá hệ thống thủy lôi của địch, chế tạo những trang thiết bị đặc biệt cho bộ đội đặc công, tìm phương án đánh B52, góp phần cải tiến SAM 2.
🇻🇳 CỐNG HIẾN ĐẾN HƠI THỞ CUỐI CÙNG
Từ những năm 1950 cho đến cuối đời, Giáo sư Trần Đại Nghĩa được Đảng và Nhà nước tin tưởng giao nhiều trọng trách trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: Cục trưởng Cục Quân giới, Cục trưởng Cục pháo binh, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật, Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết Cơ bản Nhà nước, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Công Thương, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nặng, Chủ tịch đầu tiên của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, và Hiệu trưởng đầu tiên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Thiếu tướng, Giáo sư Trần Đại Nghĩa được Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh và danh hiệu Anh hùng lao động./.
Yêu nước ST.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét