Thứ Hai, 2 tháng 5, 2022
ÔNG ĐÃ DẪM VÀO LẰN DANH GIỮA CUỘC SỐNG THỰC TẠI VỚI “LINH HỒN BẤT TỬ”. RŨ ÁO CHIẾN BINH, PHẢN BỘI ĐỒNG CHÍ, ĐỒNG BÀO SẼ KHÔNG KỊP QUAY ĐẦU TÌM “BẾN CŨ”…
QUỐC TẾ CA - BẢN HÙNG CA CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐẬP TAN XIỀNG XÍCH!
KHÔNG PHẢI NGA, EU MỚI LÀ BÊN SẼ CHỊU NHIỀU THIỆT HẠI HƠN TRONG CUỘC CHIẾN TẠI UKRAINE
Trong cuộc chiến này, điều hiển nhiên là Ukraina sẽ chịu thiệt hại nặng nề nhất. Tuy nhiên, bên chịu thiệt hại nặng thứ hai không phải Nga mà chính là EU.
Vấn đề kinh tế, Nga là nguồn cung nhiên liệu hàng đầu cho EU. Điều này đặc biệt quan trọng vì khối EU chỉ tự chủ được 13% nhu cầu nhiên liệu, còn lại phải nhập khẩu. Ước tính, EU nhập từ Nga tới 40% lượng khí đốt và 30% lượng dầu mỏ tiêu thụ. Giải pháp là EU tăng tỉ trọng nhiên liệu từ các nguồn cung khác như Mỹ và Trung Đông, tuy nhiên, điều này sẽ đẩy giá nhiên liệu trong khối tăng cao, gây ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của người dân.
Nga hiện là bạn hàng lớn thứ 5 của EU (sau Trung Quốc, Mỹ, Anh và Thuỵ Sĩ). Cũng cần phải hiểu là khi áp đặt trừng phạt lên một ai đó, cũng có nghĩa là EU tự trừng phạt mình bằng cách cắt quan hệ làm ăn với họ. Các lệnh trừng phạt của EU không chỉ khiến Nga mất nguồn thu mà cũng sẽ đẩy các doanh nghiệp của khối EU vào tình trạng khó khăn do mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Nga, như dầu thô, khí đốt, lúa mì, sắt, nhôm, nikel, bạch kim... là đầu vào cho các ngành công nghiệp của châu Âu. Cắt đứt quan hệ làm ăn với Nga sẽ làm gián đoạn chuỗi cung ứng, tăng giá thành sản phẩm, giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp châu Âu. Mỹ cũng tham gia trừng phạt Nga, tuy nhiên, những thiệt hại kinh tế của Mỹ có thể dễ dàng được bù đắp bằng việc tăng giá bán nhiên liệu cho chính châu Âu.
Vấn đề tài chính, việc loại "một số ngân hàng Nga" ra khỏi SWIFT thực ra là mất nhiều hơn được. Thứ nhất, thiệt hại của phía Nga sẽ là không lớn vì chỉ một số ngân hàng bị hạn chế. Thứ hai, trên thế giới đã và đang nổi lên những hệ thống thanh toán khác, cạnh tranh với SWIFT như CIPS của Trung Quốc và SPFS của Nga, Ấn Độ cũng đang muốn tự làm hệ thống cho riêng mình. Các ngân hàng Nga sẽ dễ dàng đổi sang một hệ thống khác, hoặc dùng song song các hệ thống. Thứ ba, việc được dùng để ép Nga cũng cho thấy SWIFT bị chi phối bởi các chính phủ phương Tây, do vậy sẽ thúc đẩy các ngân hàng trên thế giới chủ động tìm một giải pháp bổ sung - thay thế cho SWIFT. Nói cách khác, lệnh cấm này là một "món quà" cho những cường quốc như Nga - Trung - Ấn.
Vấn đề nhập cư, cuộc khủng hoảng ở Ukraina có thể khiến cho 30% dân số (như trường hợp Iraq) - tức khoảng 10 triệu người rời bỏ đất nước, ùn ùn kéo sang EU, gây ra mất an ninh trật tự, tạo gánh nặng khổng lồ cho công tác an sinh xã hội. Đó là chưa kể, Ukraina có thể biến thành là "trạm trung chuyển" người tị nạn từ Trung Đông và Châu Phi vào EU. Một cách mỉa mai, Mỹ và Anh, hai nước NATO rất nhiệt tình khiêu khích Nga, không tiếp giáp địa lý với lục địa châu Âu nên có thể dễ dàng kiểm soát cuộc khủng hoảng nhập cư này. Trong khi đó, EU với 4 nước giáp Ukraina, chưa kể Bulgaria cách 200km đường biển, không có cách nào ngăn chặn cuộc khủng hoảng này nếu cuộc chiến kéo dài.
Sự chia rẽ nội khối: trong cơn lên đồng vì Nga, EU dễ dàng tìm được sự đồng thuận của các thành viên. Tuy nhiên, sau khi mọi chuyện lắng xuống, những bất đồng trong khối sẽ trở nên trầm trọng hơn, do cộng hưởng bởi kinh tế lao đao và dịch bệnh và cấm vận, trong bối cảnh phải tăng cường chi tiêu quân sự, cộng thêm sự mất an ninh do nhập cư trái phép. Liệu Đức, Pháp, Ý và các nước Bắc Âu có tiếp tục cắn răng gánh các nước vùng Baltic, Balkan và Iberia nữa hay không? Những điều kiện khó khăn này có thể là điểm bắt lửa cho sự phân rã của EU, châm ngòi cho các cuộc xung đột tôn giáo - sắc tộc ở các nước vùng Balkan, các phong trào ly khai ở Tây Ban Nha hay xung đột với Anh về vấn đề Bắc Ireland.
Sự suy giảm các giá trị phương Tây: Trước hết, cần khẳng định rằng văn minh phương Tây hiện đang thống trị thế giới. Rất nhiều những định nghĩa vô hình của chúng ta trong cuộc sống, tỉ dụ như đàn ông cắt tóc ngắn, mặc vest, là bắt nguồn từ văn minh phương Tây. Có thể nói, văn minh phương Tây bao gồm những giá trị được toàn nhân loại coi là phổ quát. Tuy nhiên, song song với nó, là những cuộc đấu tranh không ngừng từ các nền văn minh lớn như Trung Hoa, Chính thống giáo, Hồi giáo, Ba Tư, chống lại sự áp đặt không có chọn lọc các tiêu chuẩn của Phương Tây lên nền văn hoá của mình. Ví dụ dễ thấy nhất là việc Ăn thịt tró ở Việt Nam. Phong trào chó-mèo quyền đến từ phương Tây, và được một bộ phận người dân Việt Nam mặc nhiên coi là tiêu chuẩn của văn minh, dẫu rằng mỗi nền văn hoá có những tiêu chuẩn riêng về thức ăn, và ngay ở chính Thuỵ Sĩ cũng đang rất thịnh hành món xúc xích thịt tró.
Cuộc chiến ở Ukraina đã làm lộ ra sự không phổ quát của các giá trị phương Tây. FIFA, một tổ chức về thể thao, dẫu cho có hẳn quy định riêng về phi chính trị, đã tự chà đạp lên các tiêu chuẩn mà chính mình rao giảng để áp đặt những lệnh cấm với ĐTQG và các CLB Nga.
Ngay lập tức, điều này tạo nên sự phẫn nộ trên khắp thế giới. Một khán giả, cho dù không ủng hộ hành động của Nga, cũng không còn tin vào những giá trị đó nữa. Trên bình diện rộng hơn, người dân cũng nhận ra rằng những cuộc xung đột vẫn diễn ra hàng ngày trên thế giới, bệnh viện, trường học bị dính bom, hàng triệu người yếu thế bị ảnh hưởng, tuy nhiên, chẳng có lệnh cấm vận nào được ban ra cả, bởi những khu vực đó đâu phải đồng minh của NATO.
Nói một cách mỉa mai, truyền thông phương Tây đã thành công trong việc "satan hoá" Putin và nước Nga, "nạn nhân hoá" và "anh hùng hoá" Ukraina, từ đó định hướng thành công dư luận trong khối của họ, nhưng vô tình đã lộ rõ sự tiêu chuẩn kép của chính mình trên phạm vi toàn thế giới, họ cũng đang tự uống nước đường và tưởng tượng ra một "sự chiến thắng" của họ trước Nga.
Nguồn: Tống Bá Duy
CHIẾN TRANH - NƠI THỬ THÁCH CAO NHẤT LÒNG YÊU NƯỚC!
Trong thời khắc lịch sử ngày 30/04/1975, giáo sư Trần Đại Nghĩa đã ghi trong cuốn sổ nhật ký một dòng ngắn gọn: “Đã hoàn thành nhiệm vụ” . Ông đã từ bỏ mức lương 20 lạng vàng 1 tháng để về Việt Nam theo cách mạng. Nếu ở lại Pháp, có lẽ ông đã sung sướng, giàu có như những bạn bè của ông ở lại trên đất nước ấy. Nhưng đổi lại, khi về Việt Nam, ông có một thứ quý giá hơn cả mọi thứ: đó là sự ghi nhận của nhân dân, đất nước, của lịch sử cho những đóng góp của ông cho Tổ quốc của mình!
Những lời của ông là tiếng nói cho cả một thế hệ đã hi sinh cả tuổi thanh xuân của mình, không màng mất mát để hướng tới ngày đất nước thống nhất, độc lập, giang sơn thu về một mối. Chiến tranh, hi sinh là điều không ai mong muốn, nhưng khi tổ quốc lâm nguy, hàng triệu người thanh niên đã không tiếc máu xương, chấp nhận hi sinh để giành lại nền độc lập, thống nhất. Ngàn người đã ngã xuống và triệu người lại tiếp tục đứng lên, không gì có thể ngăn cản được bước chân của người bộ đội Cụ Hồ, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - lòng vui phơi phới dậy tương lai.”
Sau thất bại tại chiến trường Việt Nam, Tướng De Castries - Chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ khi về Pháp đã phải điều trần trước Ủy ban Điều tra của Bộ Quốc phòng Pháp đã thổn thức trong bất lực: “Người ta có thể đánh bại một đội quân, chứ không thể đánh bại được một dân tộc”. Neil Sheehan, một nhà báo/kí giả nổi tiếng người Mỹ sau khi trở về từ Chiến trường Việt Nam đã có bài đăng trên Tờ The New York Times số T10/1966, trong đó có đoạn: “Một đôi quân đánh thuê, dẫu có đông bao nhiêu, trang bị hiện đại bao nhiêu cũng sẽ thua quân đội Bắc Việt. Bởi vì, những người lính Bắc Việt ấy họ chiến đấu vì lý tưởng”. Suốt 30 năm trường chinh gian khổ (1945 - 1975), những người lính kiên cường ấy đã hành quân hàng chục kilomet trong đêm tối chỉ bằng sức của một bát cơm, đã sẵn sàng cống hiến cả đời người chỉ bằng vào niềm tin tất thắng.
Một nhà văn đã từng viết: “Chiến tranh - Nơi cao nhất thử lòng ta yêu đất nước”. Và Việt Nam chúng ta đã chứng minh cho cả thế giới hiểu thế nào là yêu nước.
Nguồn: Le Dung Anh
XIN KÍNH CẨN NGHIÊNG MÌNH TRƯỚC SỰ HY SINH CỦA HÀNG TRIỆU ANH HÙNG LIỆT SĨ ĐỂ TẤT CẢ CHÚNG TA CÓ THỂ SỐNG AN BÌNH, VUI VẺ NGÀY HÔM NAY...
DẠY MÔN LỊCH SỬ TRONG BẬC HỌC PHỔ THÔNG LÀ ĐỂ NÂNG CAO NHÂN CÁCH, LÒNG YÊU NƯỚC
Ngay từ thời phong kiến khi dạy người, ông cha ta đã rất coi trọng giáo dục môn Lịch sử. Thời kỳ đó, các nho sinh từ 6 tuổi trở lên đã phải ngày đêm đèn sách, gắng sức học cho thông kinh sử, bởi không thông sử thì khó mà đỗ đạt làm quan để phụng sự dân tộc, quản lý đất nước, sau nữa là rạng rỡ tổ tông. Sinh thời Cụ Nguyễn Sinh Sắc đã dạy Nguyễn Tất Thành thời còn niên thiếu nhiều kiến thức, nhưng nhiều nhất vẫn là những bài học về lịch sử, thông qua những trang sử nước nhà đã giúp người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm hun đúc lòng yêu nước và ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc ra khỏi ách áp bức, cường quyền của bọn đế quốc, phong kiến. Thấm thía rõ điều ấy, ngay từ năm 1942 khi lãnh đạo Mặt trận Việt Minh và nhân dân Việt Nam chuẩn bị lực lượng cho cuộc tổng khởi nghĩa giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã soạn một tài liệu có tên: Lịch sử nước ta để tuyên truyền vận động nhân dân. Mở đầu tài liệu, Người viết: “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Câu thơ dản dị ấy đã nói lên ý nghĩa và tầm quan trọng của lịch sử dân tộc đối với mỗi người dân đất Việt. Tất cả những giá trị lịch sử, văn hóa của người Việt Nam qua các thời kỳ dựng nước và giữ nước thường được đúc kết bằng những trang sử sách, đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước và truyền thống chống ngoại xâm vô cùng kiên cường, bất khuất của dân tộc ta. Dạy lịch sử chính là dạy cho thế hệ trẻ Việt Nam biết làm người, giáo dục cho họ hiểu biết những phẩm giá, nhân cách con người Việt, góp phần nâng cao cái “phông” văn hóa cho học sinh, qua đó giúp cho các em hiểu biết quá khứ hào hùng của dân tộc và những giá trị của ngày hôm nay. Nếu chúng ta không dạy cho thế hệ trẻ môn Lịch sử, thì chẳng khác nào làm cho cuộc sống của họ như “cây không có gốc”, “suối không có nguồn”, khó có thể phát triển toàn diện và bền vững. Trong lễ kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (1966- 2011), Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã khẳng định: “Sử học là ngành khoa học nền tảng hết sức quan trọng, không chỉ dừng lại ở quá khứ mà từ đó biết cả hiện tại và tương lai, phục vụ trực tiếp sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.
Nhìn xa ra quốc tế cũng chưa thấy quốc gia nào coi nhẹ dạy môn Lịch sử, thậm chí các quốc gia tiên tiến khi xét cấp quốc tịch họ đều bắt buộc thi 2 môn đó là Lịch sử và ngôn ngữ của quốc gia ấy.
Chúng ta đều biết, lịch sử xã hội loài người hay lịch sử của mỗi quốc gia, dân tộc là quá trình phát triển tự nhiên, biện chứng, trong đó chứa đựng rất nhiều sự kiện và nhân vật bi, hùng. Lịch sử là một kho tàng kinh nghiệm phong phú mà con người tích lũy được. Sử học, hay khoa học lịch sử là một trong những ngành khoa học xuất hiện sớm giúp cho con người nhận thức và cải tạo thế giới khách quan. Lịch sử sẽ giúp cho thế hệ hiện tại và tương lai tiếp cận chân lý một cách nhanh nhất và hành động một cách hiệu quả nhất. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Nghiên cứu lịch sử không phải chỉ với mục đích giải thích quá khứ mà còn cả ý nghĩa mạnh dạn tiên đoán tương lai và mạnh dạn kiến nghị thực hiện các tiên đoán đó”. Mặt khác, lịch sử sẽ giải thích cho mỗi người hiểu được mình sinh ra và lớn lên từ đâu với quá khứ như thế nào. Chúng ta không thể hình dung được sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người nếu bị tách ra khỏi quá khứ hoặc sống trong một quá khứ mịt mù. Khi bàn về điều này, Tổng thống nước Pháp Francois Miterand lãnh đạo đất nước từ năm1981 đến năm1995, đã nói rằng: Những kẻ không hiểu lịch sử dân tộc thì bơ vơ như những đứa trẻ mồ côi. Vì thế, Chính phủ thời Ông đã có nhiều biện pháp chấn hưng sử học nước Pháp, đẩy mạnh việc truyền bá và giáo dục lịch sử, coi dạy- học môn Lịch sử là một trong những môn học bắt buộc ở bậc học phổ thông. Vì “Sử học là thầy dạy của cuộc sống”.
Khi bước vào thời kỳ đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để tiếp tục phát huy vai trò và tầm quan trọng các môn khoa học xã hội và nhân văn nói chung, môn Lịch sử nói riêng, Đảng ta đã có những nghị quyết định hướng và chỉ đạo dạy - học môn Lịch sử cho bậc học phổ thông. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), tháng 12 năm 1996, đã đề ra yêu cầu ngành giáo dục phải “coi trọng các môn tiếng Việt, văn hóa và lịch sử dân tộc, địa lý Việt Nam”. Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI (2011), đã chỉ rõ: “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”. Như vậy, quan điểm, chủ trương của Đảng là nhất quán, định hướng rất rõ về giáo dục môn Lịch sử cho bậc học phổ thông, chúng ta không thể làm trái sự chỉ đạo và định hướng đó. Mục tiêu của giáo dục phổ thông là đào tạo ra những con người có trí tuệ, bản lĩnh vững vàng và năng lực hành động sáng tạo. Suy nghĩ về vấn đề này, trong Điện chúc mừng Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam ngày 16/8/2012, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có viết: “Giáo dục khoa học Lịch sử cho thế hệ trẻ Việt Nam là vấn đề vô cùng quan trọng đối với tương lai và sự trường tồn phát triển dân tộc”. Lời căn dặn đó đã thể hiện lòng mong muốn đầy tâm huyết của Đại tướng đối với tương lai của đất nước và dân tộc.
Với chiều dày lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã phải trải qua biết bao thăng trầm. Với những chiến thắng Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ... Kể cả những thất bại đau xót trong công cuộc giữ nước của An Dương Vương thời quốc gia Âu Lạc, Hồ Quý Ly đầu thế kỷ XV và Triều Nguyễn nửa cuối thế kỷ XIX, luôn là một kho tư liệu sinh động chứa đựng những bài học, kinh nghiệm bi, hùng về công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, cần phải được truyền bá, giáo dục cho thế hệ trẻ hôm nay để họ tự hào với những chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta, đồng thời nhắc nhở họ luôn nêu cao ý thức cảnh giác cách mạng, phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cũng trong lịch sử dựng nước và giữ nước hào hùng đó, dân tộc ta đã phải trải qua hàng chục cuộc chiến tranh chống xâm lược với các thế lực phong kiến, đế quốc khác nhau, mà dài nhất là hơn một ngàn năm đấu tranh chống sự đô hộ của các tập đoàn phong kiến phương Bắc. Tất cả các thế lực xâm lược nước ta đều đã dùng trăm phương, nghìn kế để xóa bỏ lịch sử và văn hóa dân tộc ta, hòng để đồng hóa dân tộc nhưng chúng đều thất bại. Điều đó nói lên việc xóa bỏ lịch sử dân tộc là một trong những thủ đoạn vô cùng thâm độc, xảo quyệt của các thế lực phong kiến, đế quốc khi xâm lược nước ta và các thế lực phản động ngày nay. Âm mưu của chúng là muốn xâm chiếm, thôn tính, thống trị nước ta lâu dài. Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện nay, nhất là công nghệ thông tin đang phát triển mạnh mẽ, với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, các thế lực thù địch đang lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là internet, thông qua các trang mạng xã hội như: facebook, youtube, twite; trang web hay blog…để tuyền truyền, xuyên tạc, bôi đen, bóp méo lịch sử dân tộc, phủ nhận những giá trị của những sự kiện, nhân vật lịch sử đích thực trong suốt chiều dài dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Thủ đoạn của chúng là triệt để khai thác, cắt xén, nhào nặn những thông tin sai sự thật, không được kiểm chứng, làm cho thật- giả lẫn lộn, tạo ra sự tò mò, hoài nghi trong dư luận. Đối tượng chủ yếu mà chúng nhắm đến là thế hệ trẻ. Vì vậy, giáo dục lịch sử dân tộc ở bậc học phổ thông lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Nếu như môn lịch sử không được đối xử và lựa chọn đúng với vị trí, vai trò của nó, không trở thành môn học bắt buộc cho học sinh trung học phổ thông thì rất nguy hại cho quốc gia, dân tộc, vô tình tiếp tay cho kẻ thù.
Hiện nay, tình hình chính trị- an ninh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, diễn biến hết sức phức tạp. Tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh mạng, chiến tranh cục bộ… tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Cộng đồng quốc tế phải đối phó ngày càng quyết liệt hơn với các thách thức an ninh phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới.
Đối với Việt Nam, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền biển, đảo đang đặt ra ngày càng nặng nề và phức tạp hơn, chủ quyền đất nước đang bị đe doạ. Nếu chúng ta không có sự giáo dục đúng mức thì nhiều thế hệ người Việt không thể hiểu biết đầy đủ về lịch sử chủ quyền quốc gia. Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục phổ thông mà không nắm chắc hiểu rõ lịch sử dân tộc, không có niềm tin dân tộc, không kế thừa các truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc thì làm sao có thể yêu nước và bảo vệ đất nước một cách chân chính nhất.
Để môn lịch sử là môn học chính khóa, bắt buộc ở bậc học phổ thông nước ta hiện nay, chúng ta cần phải làm tốt những vấn đề chủ yếu sau:
Bộ Giáo dục và Đào tạo cần chỉnh sửa lại Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông mới, đưa môn Lịch sử về đúng với vị trí, vai trò của nó, xác định lịch sử là môn học chính khóa, bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông nước ta. Tiếp tục làm rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc dạy - học môn Lịch sử, không coi đó là môn học tự chọn. Làm như vậy mới nêu cao vai trò, chức năng của cơ quan quản lý Nhà nước, nêu cao trách nhiệm của người dạy và người học. Nếu môn Lịch sử không phải là môn học chính, bắt buộc ở bậc học phổ thông thì sẽ dẫn đến buông lỏng quản lý môn học này, làm cho đội ngũ người thầy không muốn dạy môn Lịch sử và học sinh cũng không muốn học môn Lịch sử và khi đó thì lịch sử dân tộc sẽ ra sao? Ai là người chịu trách nhiệm cả tiền nhân và hậu thế về sự thật lịch sử này? Đến một lúc nào đó chính thế hệ được giáo dục bằng Dự thảo chương trình này sẽ quay lưng lại với tổ tiên và ông cha ta, sẽ quay lưng lại với quốc gia, dân tộc. Đó sẽ là hậu quả khôn lường.
Biên soạn lại bộ sách giáo khoa lịch sử phổ thông với phương pháp tư duy khoa học, bằng cách khái quát các sự kiện lịch sử thành những mốc lớn sao cho dễ nhớ, dễ hiểu, trọng tâm là đi sâu khai thác làm rõ ý nghĩa của các sự kiện lịch sử thành các bài học để bồi dưỡng nhân cách, kích thích tinh thần yêu nước, yêu quê hương cho học sinh phổ thông, giúp cho các em hiểu và nắm vững các sự kiện trọng đại của đất nước, đặc biệt là cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước cho đến ngày nay.
Đổi mới phương pháp dạy- học môn Lịch sử và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy môn Lịch sử cho ngang tầm với yêu cầu mới. Dạy - học môn Lịch sử không nên theo kiểu thuộc lòng các sự kiện đã diễn ra (tất nhiên là cần nhớ chính xác một số sự kiện trọng đại của đất nước). Điều quan trọng là người thầy cần giúp cho các em học sinh hiểu và đánh giá đúng ý nghĩa và giá trị của các sự kiện lịch sử đối với tiến trình phát triển của một đất nước, một dân tộc. Dẫn dắt các em vào lịch sử dân tộc và thế giới, càng vào sâu càng hấp dẫn và khám phá điều mới lạ, vô cùng cần thiết cho con đường đi lên, con đường sống của các em. Đối với người Việt Nam, đó là các sự kiện liên quan đến công cuộc đấu tranh bảo vệ và giữ gìn nền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và công cuộc đổi mới xây dựng Tổ quốc. Làm cho học sinh khi học môn Lịch sử, phải hiểu rõ giá trị các sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, từ đó các em sẽ tự hào với truyền thống của dân tộc, có ý thức trách nhiệm với tương lai, tiền đồ của đất nước. Dạy - học môn Lịch sử chính là trang bị cho các em những kiến thức xã hội cần thiết để bước vào đời được vững vàng và chững chạc hơn. Qua đó gây cho các em cảm hứng, thích thú, nhớ lâu và càng muốn học môn Lịch sử để hiểu sâu thêm về đất nước, con người Việt Nam. Bên cạnh đó, Nhà nước cần quan tâm nhiều hơn đối với đội ngũ giáo viên dạy sử, chú ý cải thiện điều kiện làm việc của họ, có chính sách đãi ngộ hợp lý để họ không ngừng cải tiến và nâng cao chất lượng giảng dạy môn Lịch sử, phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
ĐAU VÀ NHỤC CHO NGUYỄN HƯNG QUỐC!
KHÔNG PHẢI AI CŨNG CÓ MAY MẮN ĐƯỢC CHỨNG KIẾN KHUNG CẢNH NƯỚC NHÀ THỐNG NHẤT!
“RÁC CHÍNH TRỊ” CHỈ CÓ XUẤT CHỨ KHÔNG NHẬP LẠI!
qua bên bển.
Chủ Nhật, 1 tháng 5, 2022
❌LẬT TẨY CHIÊU BÀI “YÊU NƯỚC”.
Âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch là xuyên tạc, bóp méo các sự kiện chính trị, lợi dụng các vụ việc phức tạp, nhạy cảm, các sự kiện chính trị quan trọng liên quan đến các vấn đề phân định biên giới, lãnh thổ, tranh chấp Biển Đông, ô nhiễm môi trường, hay những vấn đề liên quan đến công tác cứu trợ bão lụt, công tác phòng chống COVID-19. Chúng tung tin thất thiệt trên các trang mạng xã hội gây hoang mang trong dư luận, tạo nên sự hiểu nhầm của người dân, sự hoài nghi vào cấp ủy, chính quyền các cấp. Một trong những thủ đoạn của chúng là sử dụng chiêu bài “Yêu nước” để xúi dục lôi kéo những phần tử chống đối, manh động, những quần chúng thiếu tỉnh táo nhằm phục vụ cho mục đích phá hoại của chúng.
Trên mặt trận Chính trị ngoại giao:
Quan điểm đường lối của Đảng rõ ràng, đối tượng, đối tác chiến lược của ta công khai minh bạch. Vị thế đất nước ta ngày càng được đánh giá cao trên trường quốc tế, vì sao các thế lực chống đối sao không sử dụng các phương tiện thông tin và mạng lưới của họ để tuyên tuyền chủ trương đường lối của Đảng đến với bạn bè quốc tế mà lại thường xuyên, xuyên tạc bóp méo sự thật, phá hoại đường lối ngoại giao đúng đắn của đảng và nhà nước, hành động đó là “Yêu nước” hay “Phá hoại đất nước”?.
Về vấn đề phân định biên giới, lãnh thổ, tranh chấp Biển Đông:
Chủ trương đường lối của Đảng về độc lập dân tộc, về Quốc phòng an ninh rất đầy đủ và nhất quán. Kết quả cho thấy độc lập dân tộc được khẳng định và giữ vững, thông qua đối thoại hòa bình và công ước quốc tế về luật biển năm 1982 chúng ta kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với những hành động xâm phạm quyền tài phán, và an ninh quốc gia trên biển, vùng đặc quyền kinh tế, các điểm đảo chúng ta đang quản lý đều được bảo vệ toàn vẹn. Trong khi đó các thế lực thù địch lại lợi dụng những hình ảnh về vũ khí trang bị hiện đại trên mạng, để phóng đại tiềm lực quân sự Việt Nam, dùng những lời lẽ kích động, những tuyên bố trái với chủ trương hòa bình, xúi dục giải quyết tranh chấp bằng vũ lực. Nếu một cuộc chiến tranh bằng vũ lực nổ ra, những ai là người chịu sự tác động nặng nề nhất do chiến tranh mang lại? Đối tượng vẫn rêu rao là “Yêu nước” lúc này ở đâu?. Và sẽ làm gì để kết thúc chiến tranh, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ?. Xúi dục, mong muốn cho đất nước có chiến tranh phải chăng là “Yêu nước”?.
Thời gian qua và hiện tại toàn đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị của ta đang vào cuộc thực hiện công tác phòng chống COVID-19; Trong khi đó chúng đứng ngoài công kích phá hoại; chúng lợi dụng những khó khăn trước mắt của những người dân vùng dịch, những sai sót không đáng có của một số ít cán bộ làm nhiệm vụ chống dịch để đả phá chủ trương biện pháp chống dịch của nhà nước, xúi dục nhân dân vùng dịch bất tuân chính sách …. Chúng bỏ ra một chút ít vật chất gọi là “hỗ trợ đồng bào khó khăn” nhằm tranh thủ lôi kéo sự ủng hộ, mở mang lực lượng; Thử hỏi với số tiền ủng hộ cỏn con ấy liệu có giúp ích gì cho công cuộc chống dịch như chống giặc của nhân dân ta?. Xúi dục chống phá đường lối, kích động gây mất ổn địch phải chăng là “Yêu nước”?. Giả sử có bạo động biểu tình nổ ra, lợi ích sẽ thuộc về nhân dân lao động, về đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước hay thuộc về những kẻ ném đá giấu tay, những kẻ đi ngược lại quyền và lợi ích chính đáng của dân tộc?.
Qua một số minh chứng rõ ràng trên, chúng ta cần hết sức tỉnh táo, đấu tranh không khoan nhượng và cảnh giác với ngôn từ “Yêu nước”? của kẻ thù, tránh sập bẫy, mắc mưu tiếp tay cho chúng để phá hoại đất nước./.
LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA (NGÀY 02/5/1959): “Đảng và Chính phủ lúc nào cũng chú ý đến đồng bào vùng cao và càng ngày càng hết sức chú ý giúp đỡ đồng bào nhiều hơn nữa”. Đó là lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại buổi nói chuyện với Đoàn đại biểu các dân tộc ít người về dự lễ kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động, ngày 01 tháng 5 năm 1959 tại Thủ đô Hà Nội.
Đây là giai đoạn miền Bắc đang đẩy mạnh phong trào tổ đổi công, tiến dần lên hợp tác xã; trong đó, đồng bào các dân tộc ít người là lực lượng chủ yếu trong phát triển phong trào ở miền núi. Lời khẳng định của Bác thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Chính phủ trong thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, nhất là đoàn kết với đồng bào các dân tộc ít người và trách nhiệm của Đảng, Chính phủ đối với việc thực hiện chính sách đó, góp phần cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào ở vùng cao.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước đã quan tâm với việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn đối với đồng bào vùng cao, vùng dân tộc ít người; trong đó: Chú trọng phát triển kinh tế phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể từng vùng, đảm bào cho đồng bào các dân tộc phát huy thế mạnh của địa phương, làm giàu cho mình và cho xã hội; ưu tiên phát triển giáo dục, coi trọng việc đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số; tôn trọng và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của từng dân tộc...
Học tập và làm theo lời Bác dạy, Quân đội đã thường xuyên quan tâm làm tốt công tác đào tạo, tuyển dụng con em các đồng bào dân tộc ít người với việc mở các lớp đào tạo thiếu sinh quân tạo điều kiện thuận lợi cho con em đồng bào học tập và công tác trong quân đội. Các đơn vị có bộ đội với nhiều dân tộc khác nhau, luôn lãnh đạo tốt việc xây dựng mối đoàn kết, gắn bó giữa cán bộ, chiến sĩ người kinh với người dân tộc; làm tốt công tác phân loại đối tượng huấn luyện, giáo dục để nâng cao chất lượng huấn luyện đối với bộ đội là con em dân tộc ít người. Đặc biệt, thực hiện chức năng đội quân công tác, các đơn vị quân đội luôn chủ động phối hợp tốt với cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể địa phương vùng cao, vùng sâu, vùng xa làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; tích cực tham gia triển khai các chương trình, dự án xây dựng đơn vị kinh tế quốc phòng, gắn với phát triển kinh tế - xã hội ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; đẩy mạnh phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, cuộc vận động “Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo”, chương trình “Bò giống giúp người nghèo biên giới”, chương trình “Nâng bước em tới trường”, “Tết Biên phòng, ấm lòng dân bản”... góp phần xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao đời sống cho đồng bào, củng cố, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, thế trận quốc phòng toàn dân góp phần quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia, thực hiện điều mong muốn của Người “đưa miền núi tiến kịp miền xuôi”./.
ĐẠI TƯỚNG VĂN TIẾN DŨNG- NHÀ QUÂN SỰ XUẤT SẮC CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Cả cuộc đời gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng và quân đội, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã trở thành nhà quân sự chiến lược có uy tín lớn của quân đội Việt Nam. Ông là một trong những vị tướng chỉ huy xuất sắc, nhà lãnh đạo đầy tinh thần cách mạng tiến công, đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến tranh dân dân ta qua các cuộc kháng chiến và đối với nền khoa học nghệ thuật quân sự cách mạng Việt Nam.
Không chỉ là nhà tham mưu chiến lược tài ba, ông còn là nhà hoạch định chiến lược xuất sắc cả trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Bí thư thứ nhất rồi Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Đại tướng Văn Tiến Dũng đã có những cống hiến to lớn trong chỉ đạo tổ chức củng cố vùng giải phóng, khắc phục hậu quả chiến tranh và triển khai tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trọng tâm là xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, làm thất bại thủ đoạn chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch; củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Điều đặc biệt ở Đại tướng Văn Tiến Dũng là mặc dù không được đào tạo qua trường lớp quân sự chính quy nào, nhưng với phẩm chất và nhất là tư duy, sự học tập và trải nghiệm qua thực tiễn, từ cuộc vận động giải phóng dân tộc đến hành trình của các cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập, thống nhất Tổ quốc, ông đã trở thành một vị tướng tài ba, mưu lược, nhà quân sự xuất sắc của dân tộc Việt Nam. Ông được giới nghiên cứu khoa học quân sự đánh giá là một trong những vị tướng danh tiếng của dân tộc Việt Nam, trong thời đại Hồ Chí Minh.
Đánh giá về công lao đóng góp và tài thao lược của Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: đó là “một vị tướng có tinh thần quyết thắng lớn và tài thao lược xuất chúng, một người cộng sản kiên cường, bất khuất đã cống hiến cả cuộc đời cho lý tưởng của Đảng, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Mỹ tìm ra cách viện trợ Ukraine mà 'không phải tự bỏ tiền'
Baoquocte.vn. Mỹ đang hướng đến bổ sung các điều khoản vào dự luật viện trợ để thu giữ tài sản của Nga, thanh lý chúng và chuyển tiền cho Ukraine. Ngày 1/5, lãnh đạo phe Dân chủ chiếm đa số tại Thượng viện Mỹ Chuck Schumer cho biết ông sẽ bổ sung các điều khoản vào gói viện trợ cho Ukraine trị giá 33 tỷ USD, để cho phép Mỹ tịch thu tài sản của các tài phiệt Nga và chuyển trực tiếp cho Ukraine số tiền thu được từ việc bán các tài sản này.
Phát biểu họp báo tại thành phố New York, ông Schumer nói: 'Ukraine cần tất cả sự giúp đỡ mà họ có thể nhận được, cùng lúc đó, chúng tôi cần tất cả các tài sản mà chúng tôi có thể tập hợp được để cung cấp cho Ukraine những khoản viện trợ cần thiết'.
Theo ông Schumer, chính quyền Tổng thống Joe Biden đã đề nghị các nhà lập pháp bổ sung các điều khoản vào dự luật viện trợ để giúp họ thu giữ tài sản của Nga, thanh lý chúng và chuyển tiền cho Ukraine.
Thư ký báo chí Nhà Trắng Jen Psaki ngày 29/4 cho biết, Chính phủ Mỹ chỉ còn 250 triệu USD tiền viện trợ cho Ukraine, và đang yêu cầu Quốc hội phê duyệt khoản viện trợ mới trị giá 33 tỷ USD càng sớm càng tốt.
Trước đó, Tổng thống Biden ngày 28/4 đã yêu cầu Quốc hội Mỹ thông qua khoản viện trợ trị giá 33 tỷ USD cho Kiev, trong một động thái đánh dấu sự tăng cường tài trợ một cách mạnh mẽ của Mỹ dành cho Ukraine, hơn 2 tháng sau khi Nga thực hiện chiến dịch quân sự đặc biệt tại nước này.
Khoản viện trợ khổng lồ trên, mà các nhà lập pháp Mỹ muốn nhanh chóng thông qua, sẽ được sử dụng để cung cấp vũ khí, đạn dược và các hỗ trợ quân sự khác,
cũng như viện trợ kinh tế và nhân đạo trực tiếp cho Ukraine.
Son PB
KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC CÂU NÓI “TRIỆU NGƯỜI VUI, TRIỆU NGƯỜI BUỒN” CỦA CỐ THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT!
HÔ HÀO HÀO HỢP NHƯNG THƯỜNG XUYÊN CÓ TIẾNG NÓI LẠC LÕNG, SUY DIỄN VÀ VIẾT LẠI LỊCH THÌ HOÀ HỢP KIỂU GÌ?
TUỔI TRẺ QUÂN ĐỘI TRONG ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI THÙ ĐỊCH TRÊN MẠNG XÃ HỘI!
NHẬN THỨC RÕ VỀ ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG!
ĐÔI LỜI GỬI ÔNG NGUYỄN ĐÌNH BIN!
Lời Bác dạy ngày này năm xưa- Ngày 5/1
Ngày 5-1: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
Là lời của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa: “Gửi anh chị em
họa sĩ, biết tin có cuộc trưng bày, tiếc vì bận quá, không đi xem được. Tôi gửi
lời thân ái hỏi thăm anh chị em. Nhân tiện, tôi nói vài ý kiến của tôi đối với
nghệ thuật, để anh chị em tham khảo. Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận.
Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, đăng trên Báo Cứu quốc, số 1986, ngày
5 tháng 1 năm 1952; trong bối cảnh toàn thể dân Việt Nam đang thực hiện đường
lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện” chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong thư năm ấy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của văn hóa, nghệ thuật
đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; đồng thời tin tưởng, mong muốn
công tác giáo dục, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ họa sĩ đi đầu xung kích, sáng
tạo trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; xứng đáng là chiến sĩ cách mạng trên mặt
trận văn hóa nghệ thuật, một trong những lực lượng tiên tiến trong sự nghiệp
đấu tranh, giải phóng dân tộc.
Lời của Người trong
thư năm ấy đã nhanh chóng được anh chị em họa sĩ nói chung, họa sĩ trong quân
đội nói riêng vui mừng đón nhận, hun đúc tinh thần thi đua yêu nước, hăng say,
sáng tạo nhiều tác phẩm văn hóa, nghệ thuật phục vụ công cuộc kháng chiến, kiến
quốc chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất
nước nhà.
Lời của Chủ tịch Hồ
Chí Minh năm ấy "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là
chiến sĩ trên mặt trận ấy” đã được Đảng, Nhà nước ta vận dụng, phát triển phù
hợp với tình hình thực tiễn của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; nâng cao chất lượng xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ -
người chiến sĩ cách mạng trên mặt trận văn hóa nghệ thuật, góp phần xây dựng
nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện
- mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; thực sự là
sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh".
- Sưu tầm -