Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp
phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta. Nhìn tổng thể, không những nhân dân ta mà cả
bạn bè quốc tế cũng đã thừa nhận rằng, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta
đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong
những thành tựu này, điều dễ nhận thấy nhất và cũng là thành tựu lớn
nhất là tăng trưởng kinh tế. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội
và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu
nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước
hình thành, phát triển. Đời sống của nhân dân ngày một cải thiện. Sự
thật này là hiển nhiên, thế nhưng không hiểu vì sao vẫn còn có những
thông tin lạc lõng trên mạng xã hội “dự đoán”, “nhận định” rằng, “nền
kinh tế Việt Nam sắp sụp đổ”, “kinh tế Việt Nam xám xịt”, “sớm muộn thì
Việt Nam cũng sẽ phải rời bỏ con đường phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”...
Không chỉ các báo cáo của Việt Nam mà báo cáo của nhiều tổ chức quốc tế
cũng đánh giá cao thành tựu đổi mới của Việt Nam 30 năm qua trong lĩnh
vực kinh tế, đặc biệt là thành tựu của mấy năm gần đây. Tờ Financial Times
của Anh mới đây nhận định: Mặc cho “màn đêm u ám” bủa vây các
nền kinh tế mới nổi, Việt Nam vẫn là một trường hợp ngoại lệ
khi tiếp tục nằm ở “phía bên kia” của bức tranh. Số liệu của
bộ phận nghiên cứu Capital Economics cho thấy, từ năm 2010 đến
nay, Việt Nam là một trong những nền kinh tế mới nổi có tốc
độ tăng trưởng cao so với mức tăng trưởng trung bình. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, cùng với Việt Nam, chỉ có 4 quốc gia châu
Âu được hưởng lợi tăng trưởng xuất khẩu nhờ giá dầu giảm, bao
gồm: Ru-ma-ni, Cộng hòa Séc, Hung-ga-ry và Ba Lan. Tuy nhiên, trong
khi các nền kinh tế Ru-ma-ni, Cộng hòa Séc và Hung-ga-ry không
có sự tăng trưởng đáng kể nào về tổng sản phẩm (GDP) từ năm
2008-2014 thì kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng tới 40% trong suốt
giai đoạn...
Gần đây, trên một số trang mạng xã hội
xuất hiện một số bài phân tích về nợ công và bội chi ngân sách Nhà nước
(NSNN) của Việt Nam. Đại đa số các bài viết đều có thiện ý tốt, tiếc
rằng cũng có bài đưa các số liệu chưa chính xác và kèm theo đó là các
bình luận thiếu căn cứ như: “Việt Nam sắp vỡ nợ”, “nợ công của Việt Nam
cao nhất thế giới”….
Chính phủ đã có báo cáo, phân tích cụ thể những tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân của việc bội chi, nợ công tăng". Như vậy, nợ công của chúng ta đang ở mức mà Quốc hội cho phép và không
phải là “cao nhất thế giới”. Để giảm gánh nặng nợ công, giảm bội chi
NSNN, Chính phủ dự kiến mức bội chi NSNN bình quân của giai đoạn
2016-2020 tính theo Luật NSNN hiện hành khoảng 4,9% GDP; đồng thời đặt
mục tiêu dư nợ công không quá 65% GDP, dư nợ của Chính phủ không quá 55%
GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP. Để đạt được định
hướng về dư nợ công và bội chi NSNN nêu trên, Chính phủ đã yêu cầu các
cấp, các ngành, các địa phương thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp,
trong đó quan trọng nhất là tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất,
kinh doanh, thúc đẩy kinh tế phát triển ở mức cao hơn giai đoạn
2011-2015, tạo điều kiện tăng thu NSNN, giảm áp lực chi NSNN về an sinh
xã hội. Đồng thời, thực hiện cơ cấu lại các khoản nợ công; điều chỉnh
chính sách thu; cơ cấu lại chi ngân sách. Trong đó: Đẩy mạnh huy động
các khoản vay trung, dài hạn, triển khai có hiệu quả các nghiệp vụ quản
lý và xử lý rủi ro đối với danh mục nợ công; ưu tiên bố trí chi trả nợ.
Nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản vay của Chính phủ, giảm dần hạn mức
cấp bảo lãnh Chính phủ; rà soát, loại bỏ các dự án không hiệu quả; kiểm
soát chặt chẽ các khoản bảo lãnh Chính phủ, các khoản nợ của chính quyền
địa phương, nợ xây dựng cơ bản của các bộ, cơ quan Trung ương và địa
phương; quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản vay về cho vay lại,
để giảm thiểu phát sinh các nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ. Tăng
cường phát triển thị trường vốn trong nước cả về chiều rộng và chiều sâu
nhằm đa dạng hóa kỳ hạn phát hành, trong đó tập trung phát hành trái
phiếu chính phủ kỳ hạn dài từ 5 năm trở lên…
Với những người dân ở Việt Nam, nếu ai đã từng chứng kiến cuộc sống
trước thời điểm Đổi mới đất nước thì đều cảm nhận được sự thay đổi diệu
kỳ. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, Việt Nam đã dư thừa lương thực. Cảnh
đường làng ngập ngụa bởi bùn đất ngày nào đã không còn nữa bởi hầu hết
các con đường làng bây giờ đã được bổ bê tông, được trải nhựa. Chương
trình nông thôn mới đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Tại các đô thị,
những khu nhà “ổ chuột” hiện đã không còn nữa, thay vào đó là những khu
đô thị hiện đại, khu chung cư cao cấp. Những con đường cao tốc ngày một
vươn dài... Nhiều công trình mới to đẹp, hiện đại đã mọc lên ngày càng
nhiều, tô điểm cho đất nước.
Tuy
nhiên, nhìn tổng thể và những vấn đề sâu xa trong nền kinh tế của Việt
Nam vẫn còn khá nhiều những hạn chế, bất ổn. Đảng và Nhà nước ta cũng đã
nhận ra vấn đề này và đã "bắt mạch, kê đơn" những yếu kém, tồn tại của
nền kinh tế Việt Nam. Thế nhưng, thực tế đã chứng tỏ hiển nhiên thành
tựu đổi mới của Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế. Với những bình luận,
nhận định áp đặt chủ quan, thiếu căn cứ và mang nặng tư tưởng
thù địch của một số người về thực trạng nền kinh tế Việt Nam chắc chắn
sẽ bị dư luận và người dân Việt Nam bác bỏ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét