Thứ Tư, 9 tháng 9, 2020

Không thể phủ nhận thành tựu 30 năm đổi mới

     Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Nhìn tổng thể, không những nhân dân ta mà cả bạn bè quốc tế cũng đã thừa nhận rằng, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong những thành tựu này, điều dễ nhận thấy nhất và cũng là thành tựu lớn nhất là tăng trưởng kinh tế. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Đời sống của nhân dân ngày một cải thiện. Sự thật này là hiển nhiên, thế nhưng không hiểu vì sao vẫn còn có những thông tin lạc lõng trên mạng xã hội “dự đoán”, “nhận định” rằng, “nền kinh tế Việt Nam sắp sụp đổ”, “kinh tế Việt Nam xám xịt”, “sớm muộn thì Việt Nam cũng sẽ phải rời bỏ con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”...
      Không chỉ các báo cáo của Việt Nam mà báo cáo của nhiều tổ chức quốc tế cũng đánh giá cao thành tựu đổi mới của Việt Nam 30 năm qua trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là thành tựu của mấy năm gần đây. Tờ Financial Times của Anh mới đây nhận định: Mặc cho “màn đêm u ám” bủa vây các nền kinh tế mới nổi, Việt Nam vẫn là một trường hợp ngoại lệ khi tiếp tục nằm ở “phía bên kia” của bức tranh. Số liệu của bộ phận nghiên cứu Capital Economics cho thấy, từ năm 2010 đến nay, Việt Nam là một trong những nền kinh tế mới nổi có tốc độ tăng trưởng cao so với mức tăng trưởng trung bình. Kết quả nghiên cứu cho thấy, cùng với Việt Nam, chỉ có 4 quốc gia châu Âu được hưởng lợi tăng trưởng xuất khẩu nhờ giá dầu giảm, bao gồm: Ru-ma-ni, Cộng hòa Séc, Hung-ga-ry và Ba Lan. Tuy nhiên, trong khi các nền kinh tế Ru-ma-ni, Cộng hòa Séc và Hung-ga-ry không có sự tăng trưởng đáng kể nào về tổng sản phẩm (GDP) từ năm 2008-2014 thì kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng tới 40% trong suốt giai đoạn...
       Gần đây, trên một số trang mạng xã hội xuất hiện một số bài phân tích về nợ công và bội chi ngân sách Nhà nước (NSNN) của Việt Nam. Đại đa số các bài viết đều có thiện ý tốt, tiếc rằng cũng có bài đưa các số liệu chưa chính xác và kèm theo đó là các bình luận thiếu căn cứ như: “Việt Nam sắp vỡ nợ”, “nợ công của Việt Nam cao nhất thế giới”…. Chính phủ đã có báo cáo, phân tích cụ thể những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của việc bội chi, nợ công tăng". Như vậy, nợ công của chúng ta đang ở mức mà Quốc hội cho phép và không phải là “cao nhất thế giới”. Để giảm gánh nặng nợ công, giảm bội chi NSNN, Chính phủ dự kiến mức bội chi NSNN bình quân của giai đoạn 2016-2020 tính theo Luật NSNN hiện hành khoảng 4,9% GDP; đồng thời đặt mục tiêu dư nợ công không quá 65% GDP, dư nợ của Chính phủ không quá 55% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP. Để đạt được định hướng về dư nợ công và bội chi NSNN nêu trên, Chính phủ đã yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp, trong đó quan trọng nhất là tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy kinh tế phát triển ở mức cao hơn giai đoạn 2011-2015, tạo điều kiện tăng thu NSNN, giảm áp lực chi NSNN về an sinh xã hội. Đồng thời, thực hiện cơ cấu lại các khoản nợ công; điều chỉnh chính sách thu; cơ cấu lại chi ngân sách. Trong đó: Đẩy mạnh huy động các khoản vay trung, dài hạn, triển khai có hiệu quả các nghiệp vụ quản lý và xử lý rủi ro đối với danh mục nợ công; ưu tiên bố trí chi trả nợ. Nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản vay của Chính phủ, giảm dần hạn mức cấp bảo lãnh Chính phủ; rà soát, loại bỏ các dự án không hiệu quả; kiểm soát chặt chẽ các khoản bảo lãnh Chính phủ, các khoản nợ của chính quyền địa phương, nợ xây dựng cơ bản của các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương; quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng các khoản vay về cho vay lại, để giảm thiểu phát sinh các nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ. Tăng cường phát triển thị trường vốn trong nước cả về chiều rộng và chiều sâu nhằm đa dạng hóa kỳ hạn phát hành, trong đó tập trung phát hành trái phiếu chính phủ kỳ hạn dài từ 5 năm trở lên…
       Với những người dân ở Việt Nam, nếu ai đã từng chứng kiến cuộc sống trước thời điểm Đổi mới đất nước thì đều cảm nhận được sự thay đổi diệu kỳ. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, Việt Nam đã dư thừa lương thực. Cảnh đường làng ngập ngụa bởi bùn đất ngày nào đã không còn nữa bởi hầu hết các con đường làng bây giờ đã được bổ bê tông, được trải nhựa. Chương trình nông thôn mới đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Tại các đô thị, những khu nhà “ổ chuột” hiện đã không còn nữa, thay vào đó là những khu đô thị hiện đại, khu chung cư cao cấp. Những con đường cao tốc ngày một vươn dài... Nhiều công trình mới to đẹp, hiện đại đã mọc lên ngày càng nhiều, tô điểm cho đất nước.
       Tuy nhiên, nhìn tổng thể và những vấn đề sâu xa trong nền kinh tế của Việt Nam vẫn còn khá nhiều những hạn chế, bất ổn. Đảng và Nhà nước ta cũng đã nhận ra vấn đề này và đã "bắt mạch, kê đơn" những yếu kém, tồn tại của nền kinh tế Việt Nam. Thế nhưng, thực tế đã chứng tỏ hiển nhiên thành tựu đổi mới của Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế. Với những bình luận, nhận định áp đặt chủ quan, thiếu căn cứ và mang nặng tư tưởng thù địch của một số người về thực trạng nền kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ bị dư luận và người dân Việt Nam bác bỏ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét