Hồ Chí Minh, “Nhân vật kiệt xuất”, “Anh hùng giải phóng dân tộc và là nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”. Những đóng góp của Hồ Chí Minh mang tầm vóc dân tộc và quốc tế, cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam và quá trình phát triển văn minh tiến bộ của nhân loại. Một con người toàn vẹn, đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới. Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam nhấn mạnh: “Cả cuộc đời vĩ đại của HỒ CHỦ TỊCH là tấm gương mãi mãi sáng ngời chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nhân dân thắm thiết, đạo đức chí công vô tư, tác phong khiêm tốn, giản dị”[1].
Cố Tổng thống Chile, Salvador Allende Gossens, một chính khách quốc tế
đã nhận xét: “Liêm khiết, nhân đạo và vô cùng khiêm tốn là 3 đức tính tiêu biểu
của nhà hoạt động chính trị Hồ Chí Minh”.
Tư tưởng, tấm gương đạo
đức và phong cách Hồ Chí Minh toát lên đức tính khiêm nhường và tình thương bao
la thể hiện trong suốt cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh. Từ khi ra đi tìm đường
cứu nước cho đến khi về cõi vĩnh hằng, không một giây phút nào Người dành cho
riêng mình.
Trước lúc đi xa, Hồ Chí
Minh vẫn một lòng hướng về Đảng, hướng về con người, quan tâm chăm lo cho con
người được sung sướng, ấm no và hạnh phúc: “Trước hết nói về Đảng…”, “Đầu tiên
là công việc đối với con người…”, “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu
cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng.
Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh
niên, nhi đồng quốc tế”[2]
Hai tiếng “Bác Hồ” là sự
tôn vinh đặc biệt của nhân dân Việt Nam yêu nước nhiều thế hệ đối với Hồ Chí
Minh. Đã từ lâu, mọi người dân Việt Nam yêu nước đều coi Hồ Chí Minh là bậc
danh nhân, là anh hùng dân tộc vĩ đại như những vị anh hùng dân tộc: Trần Hưng
Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung… Và giá trị tư tưởng, đạo đức của Người
đã trở thành giá trị văn hóa dân tộc, văn hóa dân gian tự nhiên truyền từ thế hệ
này đến thế hệ khác, như nguồn sữa mẹ nuôi dưỡng cuộc sống tâm hồn của dân tộc
Việt Nam, như lớp phù sa bồi đắp cho sự phì nhiêu của đời sống văn hóa dân tộc.
Đây chính là sự tôn vinh từ tâm khảm một cách tự giác của người Việt Nam yêu nước
chứ không phải sự sùng bái cá nhân.
Đức tính khiêm nhường cao quý và tình thương bao la của Hồ
Chí Minh là những phẩm chất, chuẩn mực thể hiện riêng trong con người Hồ Chí
Minh. Đó là sự tôn kính lớp người đi trước, là sự kính trọng nhân dân, là sự giản
dị, thanh đạm, thanh cao trong sinh hoạt hàng ngày; là cách sống chừng mực, điều
độ, ngăn nắp, yêu lao động, rất quý trọng thời gian, chẳng có ham muốn danh lợi
riêng cho mình; đó là tình thương yêu con người hòa quyện với tình yêu thiên
nhiên tạo nên tinh thần lạc quan của người chiến sĩ, kết hợp chặt chẽ với những
rung động say mê của một tâm hồn nghệ sĩ. Đức tính đó không chỉ tác động đến nhận
thức mà còn có sức cảm hoá con người, là phong cách của một vĩ nhân nhưng không
xa lạ, khác thường, mà rất gần gũi, ai ai cũng có thể học tập và làm theo.
Khiêm nhường, có thể hiểu là đức tính tốt của con người
mà nó thể hiện được sự nhường nhịn của con người. Khiêm nhường có nghĩa là
khiêm tốn và nhường nhịn trong các mối quan hệ. Những
người hiền tài, có bề dày văn hóa luôn khiêm tốn và nhún nhường. Bác Hồ kính
yêu của chúng ta là một bậc chí nhân như vậy.
Trước
khi có ý định làm một công việc gì, bao giờ Bác cũng hỏi ý kiến của các bậc
tiền nhân với sự kính trọng và khiêm nhường. Như thư gửi cụ Phan Chu Chinh, thư
gửi cụ Đinh Công Huy, thư gửi cụ Bùi Bằng Đoàn, cụ Chí Tài… Ngày 7/10/1947, cụ
Nguyễn Văn Tố nguyên là Trưởng ban Thường trực Quốc hội Khóa I, nguyên Bộ
trưởng Bộ Cứu tế đã bị quân Pháp bắt tra tấn và bị giết hại, Hồ Chí Minh đã viết bài văn tế đưa tiễn cụ đến nơi an nghỉ
cuối cùng. Nhưng viết xong, Người đã viết thư kèm theo bài văn tế cụ Nguyễn Văn
Tố và gửi cho cụ Bùi Bằng Đoàn (cử nhân Nho học). Khi đó Hồ Chí Minh đang là
Chủ tịch nước kiêm Thủ tướng Chính phủ, còn cụ Bùi Bằng Đoàn là Trưởng ban
Thường trực Quốc hội. Bức thư rất ngắn gọn nhưng mang đầy sự kính trọng, khiêm
nhường của Bác trước cụ Bùi Bằng Đoàn. Bác đã dùng những từ ngữ vừa chân thật,
cầu thị, không che giấu bất kỳ hạn chế nào của bản thân, vừa tôn trọng sự hiểu
biết sâu rộng của cụ Bùi Bằng Đoàn: “Kính gửi cụ Bùi, Tôi muốn có một bài truy
điệu cụ Tố. Nhưng nhờ người viết thì không biết nhờ ai. Tự viết lấy thì viết
không được, vì xưa nay tôi chưa hề tập viết văn tế. Vậy tôi cứ bạo dạn thảo ra
đây, trình cụ xem. Nếu có thể sửa được thì xin cụ sửa giùm”[3].
Chỉ
cần đọc bức thư ấy cũng đủ để cắt nghĩa vì sao tổ chức UNESCO lại vinh danh Hồ
Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất!
Đối
với những nhà cách mạng lớn của nhân loại như C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin...,
Bác tôn vinh như những người thầy và cố gắng làm “người học trò nhỏ” của các vị
ấy. Với cán bộ dưới quyền, Người vẫn xưng “tôi”, xưng “Bác”. Với nhân dân,
Người luôn coi đó là một trường học lớn và có khi Người xưng mình là “cháu”.
Cách xưng hô đó là thực lòng, thực tâm của Bác. Nhưng chính hành vi ứng xử đó
lại tỏa sáng phẩm chất khiêm nhường cao quý, làm cho Bác càng vĩ đại hơn trong
lòng mọi người. Bằng sự khiêm nhường, Bác không chỉ đã thu phục được nhân tâm,
hấp dẫn, lôi cuốn được mọi tầng lớp trong xã hội đi theo, cống hiến cho cách
mạng đến trọn đời, mà còn dành trọn được sự kính trọng, tin yêu, ủng hộ của
nhân dân và bạn bè quốc tế đối với Đảng, Nhà nước ta.
Trong
suốt cuộc đời Hồ Chí Minh, Người luôn là mẫu mực của đức khiêm nhường, đồng
thời cũng rất quan tâm giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên về đức khiêm nhường. Hồ
Chí Minh luôn phê bình thái độ của một số cán bộ “Cậy thế mình ở trong ban này
ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không
nghĩ đến dân. Quên rằng, dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải
để cậy thế với dân”[4].
Vì vậy, Người căn dặn cán bộ: “đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc
chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống
trị của Pháp, Nhật.... Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính
ta”[5].
Việt Nam ta có truyền
thống nổi bật là văn hóa trọng tình nghĩa. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng,
“công việc đối với con người” cũng là mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh.
Người luôn đề cao nhân tố con người trên tất cả các lĩnh vực của sự nghiệp cách
mạng. Bởi vì, con người vừa là mục tiêu, vừa là chủ thể và là động lực của cách
mạng.
Mọi
cách ứng xử của Hồ Chí Minh là ứng xử dựa trên cơ sở của tình người, yêu thương
con người, là lòng nhân đạo, là tính nhân văn, là sự khoan dung độ lượng trong
hành xử ở cuộc sống. Mọi sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội - giải phóng giai cấp và cái đích cuối cùng là giải phóng con người. Qua
“công việc đối với con người”, chúng ta thấy tấm lòng yêu thương, nhân hậu, bao
la rộng lớn, trọn vẹn nghĩa tình của Hồ Chí Minh đối với tất cả các tầng lớp
nhân dân, cả các cháu thiếu niên nhi đồng, cả những người lầm đường lạc lối…
Trước hết là sự quan
tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Vấn đề
hàng đầu mà Người đặt ra và yêu cẩu ở đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là phải
giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng. Vì Đảng là hạt nhân để đoàn kết, tập hợp lực lượng,
phát huy sức mạnh của mọi người Việt Nam trong chiến đấu cũng như trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Với tư cách là người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí
Minh luôn chăm lo, vun đắp, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và là hiện
thân mẫu mực của sự đoàn kết đó. Trước lúc đi xa Người căn dặn: “Nhờ đoàn kết
chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc,
cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo
nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đế thắng lợi khác”[6].
Và Người căn dặn đảng viên ta “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Tình yêu thương bao la
của Hồ Chí Minh đối với con người còn thể hiện ở chiến lược trồng người, ở việc
quan tâm đến thế hệ trẻ, bởi “thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà,
nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên[7]”,
vì vậy phải đặc biệt quan tâm đến thế hệ trẻ: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là một việc rất quan trọng và cần thiết[8]”.
Đối với nhân dân, trong
Di chúc, Người viết: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế,
văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”[9].
Tình thương bao la của
Hồ Chí Minh đối với nhân dân thể hiện ở tình thương yêu, quý trọng con người
trước hết dành cho những người bị áp bức, bóc lột, những người cùng khổ, những
người dễ bị tổn thương trong xã hội. Ở đâu và lúc nào Hồ Chí Minh cũng có tình
thương sâu đậm đối với các cụ già, em nhỏ, đặc biệt có tư tưởng giải phóng phụ
nữ, có sự quan tâm đặc biệt đối với phụ nữ. Người đã để lại vô vàn những câu chuyện
cảm động về tình cảm, những ứng xử văn hóa đối với nhân dân, đối với những lớp
người bị thiệt thòi trong xã hội do hậu quả quan niệm, không đúng của xã hội thực
dân, phong kiến, đặc biệt là tư tưởng trọng nam khinh nữ.
Tình thương bao la của
Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở sự khoan dung và nhân ái, khoan dung và nhân ái ở Hồ
Chí Minh không có biên giới quốc gia. Đến thăm bất cứ nước nào, khi ở địa vị Chủ
tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đều dành thời gian tếp xúc với
nhân dân lao động, đặc biệt là đối với các cháu thiếu niên nhi đồng. Điều đó cắt
nghĩa tại sao Hồ Chí Minh không những được thiếu niên nhi đồng Việt Nam gọi là
Bác Hồ mà còn được thiếu niên nhi đồng nhiều nước trên thế giới gọi như thế,
không những được nhân dân Việt Nam gọi là Bác Hồ mà còn được rất nhiều tầng lớp
nhân dân trên thế giới gọi như thế. Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh trở
thành một biểu tượng về tình hữu ái của con người trên trái đất. Tình nhân ái
trong ứng xử của Hồ Chí Minh không dừng ở lời nói mà còn trong hành động. Người
tố cáo tội ác của thực dân đế quốc, đấu tranh bảo vệ những người bị áp bức, phấn
đấu vì sự nghiệp tiến bộ, đưa lại cho con người tự do, ấm no, hạnh phúc, phấn đấu
vì lý tưởng giải phóng triệt để cho con người vươn tới cái tất yếu của tự do.
Khoan dung, độ lượng
trong Hồ Chí Minh biểu hiện ở lòng yêu thương mênh mông, sâu sắc đối với con
người, ở niềm tin vào phần tốt đẹp, phần thiện trong mỗi con người, dù nhất thời
họ có lầm lạc, còn nhỏ nhen, thấp kém; từ đó Người nhắc nhở chúng ta “phải biết
làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất
dần đi”[10].
Đối với những quan lại
cũ, cả với những người từng có nợ máu với cách mạng, Người cũng khuyên không
nên đào bới những chuyện cũ mà nên dùng chính sách cảm hóa, khoan dung. Để làm
được điều đó, Người nhắc nhở chúng ta phải vượt qua những định kiến, hẹp hòi. Di
chúc tháng 5/1968 có đoạn: “Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm
cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v., thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục vừa
phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương
thiện”[11].
Đối với đồng bào miền núi, Người đề nghị Đảng và Chính phủ có chính sách cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào, làm cho miền núi tiến kịp miền
xuôi.
Đối
với Hồ Chí Minh, yêu thương con người không chỉ là sự quan tâm đối với con người
mà đó còn là sự hy sinh tất cả vì con người. Suốt cuộc đời Hồ Chí Minh chỉ phấn
đấu cho việc chung, vì lợi ích chung của cả dân tộc, của đất nước. Cuộc sống
riêng của Người đã thực sự hòa nhịp chung vào lợi ích chung của cả dân tộc,
chăm lo cho lợi ích chung của cả dân tộc, dù ở trên bất kỳ cương vị nào. Khi trở
thành Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng, Người luôn quan niệm đó là nhiệm vụ mà nhân
dân giao cho nên phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Khi được ủy thác quyền
lực thì làm việc hết lòng, hết sức, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh quốc
dân ra trước mặt trận, bao giờ đồng bào cho lui thì phải vui lòng lui. Trước
lúc đi xa, Người viết: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ
cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều
gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều
hơn nữa”[12].
Tình cảm bao la của Hồ Chí Minh còn là sự hòa quyện với thiên
nhiên, cảnh vật xung quanh Người. Đó là những hàng dâm bụt, những cây xoài hay
những bông hoa sen, hồ cá…. Trong những năm tháng cuối đời, Người sống trong
ngôi nhà sàn đơn sơ giản dị, ngát hương thơm của cây cỏ, hoa lá trong vườn
nhưng tâm hồn thì lộng gió bốn phương thời đại. Người luôn luôn có sự quý trọng
và bảo vệ những giá trị mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Thật cảm động
khi về với cõi vĩnh hằng nhưng Bác vẫn dành tình cảm cho dân cho nước, cho cảnh
vật, thiên nhiên: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh
đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân. Tôi yêu cầu thi hài
tôi được đốt đi, tức là “hoả táng”…Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung
quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày, cây nhiều
thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp”[13].
Nhà thơ Tố Hữu đã viết ca ngợi Hồ Chí Minh:
“… Ôi lòng Bác vậy, cứ thương ta.
Thương cuộc đời chung, thương cỏ hoa.
Chỉ biết quên mình, cho hết thẩy
Như dòng sông chẩy, nặng phù sa…”
Trong tình hình mới, công cuộc đổi mới đang đi vào chiều
sâu, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhận thức của nhân dân ngày càng được
nâng cao. Vấn đề cấp bách hiện nay đối với cán bộ là phải đáp ứng được những
đòi hỏi của thời cuộc. Nhân dân sẽ không thể chấp nhận “quan trí” thấp hơn dân
trí.
Học tập và làm theo đức tính khiêm nhường và tình thương
bao la của Hồ Chí Minh chính là xây dựng cho mình một bản lĩnh và trí tuệ hơn
người, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo đức và trí tuệ, là sự khiêm tốn giản
dị trong ứng xử. Điều đó còn được thể hiện ở chỗ có cái tâm trong sáng, cái đức
cao đẹp và ý chí vững vàng vươn lên chân, thiện mỹ.
Thương dân, trọng dân, tin dân là những đức tính cao đẹp
của Hồ Chí Minh và cũng rất cần thiết đối với cán bộ, đảng viên hiện nay. Có
lòng thương yêu nhân dân thì không thể vô cảm trước khó khăn, thiếu thốn, bức
xúc của nhân dân; không thể đùn đẩy trách nhiệm cấp này sang cấp khác, cá nhân
này sang cá nhân khác hay tập thể này sang tập thể khác. Có thái độ trọng dân
thì sẽ lắng nghe ý kiến của dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm cho dân tin,
khiêm tốn học hỏi, chân thành tiếp thu ý kiến của dân và thật sự hoan nghênh
nhân dân phê bình mình. Đã tin dân thì sẽ mạnh dạn tìm mọi cách để dân tham gia
ý kiến, động viên trí tuệ và sức mạnh của dân vào quá trình xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh phụ thuộc vào chính suy nghĩ và hành động
của chúng ta, của cả hệ thống chính trị và của toàn dân Việt Nam hôm nay và mai
sau.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tập 15, tr.629
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tập 15,
tr.613.
[3]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tập 5,
tr.543.
[4]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tập 4,
tr.65.
[5]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tập 4,
tr.65.
[6]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tập 15,
tr.621.
[7]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tập 5,
tr.216.
[8]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tập 15,
tr.622.
[9]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tập 15,
tr.622.
[10] Hồ
Chí Minh: Toàn tập, tập 15, Nxb Chính
trị quốc gia, H 2011, tr. 672
[11]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tập 15,
tr.617.
[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, H
2011, tr. 625
[13]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tập 15,
tr.615.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét