Một là, xây dựng tiềm lực quốc phòng, tập trung vào những nội dung sau:
(i) Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần. Tập trung xây dựng niềm tin và sự đồng thuận của mọi tầng lớp nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tinh thần cảnh giác cách mạng; xây dựng nền văn hóa, các giá trị đạo đức; tăng cường các mối quan hệ quốc tế. Xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị các cấp thực sự trong sạch, vững mạnh. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục quốc phòng cho lực lượng vũ trang và toàn dân; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho đội ngũ cán bộ các cấp. Giữ vững ổn định chính trị, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện tốt chính sách tôn giáo, dân tộc của Đảng, Nhà nước; phát huy dân chủ rộng rãi, công bằng, văn minh; tạo sự đồng thuận xã hội trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; chủ động ngăn ngừa, phòng, chống, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
(ii) Xây dựng tiềm lực kinh tế. Xây dựng tiềm lực kinh tế của nền quốc phòng toàn dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nâng cao hiệu quả kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng; kết hợp từ chiến lược đến quy hoạch, kế hoạch của quốc gia, ngành nghề, vùng, miền. Phát huy kinh tế nội lực, kinh tế số, tăng cường dự trữ cơ sở vật chất, đầu tư có trọng điểm cho quốc phòng, nhất là việc đầu tư sản xuất, mua sắm vũ khí, trang bị hiện đại cho lực lượng vũ trang. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển đổi số của nền kinh tế với xây dựng hạ tầng, chuyển đổi số của nền quốc phòng toàn dân. Phát huy thế mạnh kinh tế của từng vùng, miền, địa phương và liên kết kinh tế giữa các vùng, ngành, lĩnh vực kinh tế. Phát triển kinh tế gắn với coi trọng bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phòng thủ dân sự, tăng cường củng cố quốc phòng. Nâng cao hiệu quả xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng các đoàn kinh tế - quốc phòng trên một số vùng chiến lược, biên giới, biển, đảo. Phát triển công nghiệp quốc phòng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, đáp ứng yêu cầu bảo đảm vũ khí, trang bị, sản xuất được một số loại vũ khí, trang bị hiện đại, vũ khí chiến lược cho quân đội, dân quân tự vệ...
(iii) Xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ. Kết hợp phát triển khoa học - công nghệ quốc gia với xây dựng tiềm lực khoa học - công nghệ quốc phòng. Nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ mới, hiện đại và công nghệ số trong sản xuất, bảo đảm vũ khí trang bị, phương tiện kỹ thuật; khoa học quân sự; nghệ thuật quân sự, tổng kết chiến tranh... Đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, sử dụng đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học, kỹ thuật cho phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng. Tăng cường đầu tư, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ hiện đại, lưỡng dụng, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, phát triển khoa học - công nghệ quân sự, quốc phòng. Mở rộng hợp tác quốc tế để tiếp thu khoa học - công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện Việt Nam, đáp ứng phát triển khoa học - công nghệ quốc gia, khoa học - công nghệ quân sự, quốc phòng.
(iv) Xây dựng tiềm lực quân sự. Xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; lực lượng dự bị động viên hùng hậu; lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền. Chú trọng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Gắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với quá trình xây dựng tiềm lực quân sự; bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật, vũ khí, trang bị, phương tiện cho các lực lượng vũ trang, nhất là quân đội nhân dân. Gắn xây dựng tiềm lực quân sự với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng các tiềm lực khác bảo đảm huy động tạo thành sức mạnh quân sự, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai là, xây dựng lực lượng quốc phòng. Nền quốc phòng toàn dân Việt Nam dựa vào sức mạnh tổng hợp, toàn diện của quốc gia, dân tộc, nên lực lượng quốc phòng bao gồm lực lượng toàn dân và lực lượng vũ trang nhân dân. Theo đó, cần tập trung xây dựng, củng cố vững chắc hệ thống chính trị, bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; trong đó trọng tâm là xây dựng và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước và chính quyền các cấp. Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của nhân dân, của cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị các cấp. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển, đảo; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cả trong thời bình và thời chiến.
Ba là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Cần tập trung xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng gắn với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc thành một thể thống nhất để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quy hoạch, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân luôn gắn với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng và các quy hoạch khác; kết hợp chặt chẽ giữa phân vùng kinh tế với phân vùng chiến lược quốc phòng và xây dựng hậu phương chiến lược. Xây dựng thế trận phòng thủ quân khu, xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc. Xây dựng hệ thống chính trị các cấp vững mạnh, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, tạo “thế trận lòng dân” vững chắc.
LHQ-ST
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét