Thứ Hai, 16 tháng 9, 2019

VÌ SAO CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, CƠ HỘI CHÍNH TRỊ GIA TĂNG HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG VẤN ĐỀ "XÃ HỘI DÂN SỰ" ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM?


VÌ SAO CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, CƠ HỘI CHÍNH TRỊ GIA TĂNG HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG VẤN ĐỀ "XÃ HỘI DÂN SỰ" ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM?
Những năm gần đây, khái niệm “xã hội dân sự” xuất hiện trên các diễn đàn, báo chí, truyền thông xã hội với tần suất ngày càng nhiều hơn. Sở dĩ được thảo luận nhiều, vì trong vòng hơn hai thập niên qua, “xã hội dân sự” được các thế lực thù địch, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá Đảng, Nhà nước ta.
Một số học giả trên thế giới có quan điểm chống cộng rất đề cao vai trò của “XHDS” trong các cuộc “cách mạng sắc màu” lật đổ chế độ XHCN. Giữa những năm 80 của thế kỷ XX, ngay sau khi khởi xướng cải tổ với việc M. Goóc-ba-chốp chủ trương “công khai hóa” và “dân chủ hóa”, các tổ chức đoàn thể phi chính thức và các ấn phẩm tuyên truyền cho tự do hóa tư sản dưới nhiều hình thức đã mọc lên “như nấm sau mưa” ở Liên Xô. Ngày 28-12-1987, xã luận đăng trên báo Sự thật cho biết, Liên Xô khi đó đã có hơn 30.000 tổ chức, đoàn thể phi chính thức. Do thái độ ủng hộ của M. Goóc-ba-chốp, ngày càng có nhiều tổ chức đoàn thể xã hội chống đối Đảng, chính quyền Xô-viết được công khai hóa, hợp pháp hóa. M. Goóc-ba-chốp không những cho phép các đoàn thể phi chính thức tồn tại mà còn cổ vũ thành lập các đảng phái, từng bước thực hiện chế độ đa đảng. Các đảng đối lập ra đời và sau đó đã giành được chính quyền tại một loạt địa phương dưới cái gọi là “bầu cử tự do” là hệ quả trực tiếp của chính sách nêu trên. Những tổ chức này trắng trợn xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ, hạ bệ các nhà lãnh đạo Liên Xô trước đây, phủ nhận thành tựu của chủ nghĩa xã hội, ngang nhiên hô hào chống chế độ và Nhà nước Xô-viết. Đây là một trong những nhân tố trực tiếp dẫn đến sự tan rã của Liên Xô.
Tại Ðông Âu ngay từ những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, ở một số nước đã hình thành các công đoàn, hội có xu hướng tách khỏi quản lý của nhà nước, đối lập với chính quyền, hoạt động với danh nghĩa là “tổ chức XHDS” nhân danh bảo vệ công nhân, bảo vệ các quyền dân sự. Thông qua việc lôi kéo quần chúng, với sự hỗ trợ từ nước ngoài, một số tổ chức Công giáo, được kích hoạt thêm bởi các chính sách “công khai hóa”, “dân chủ hóa” và chính sách đối ngoại với đồng minh của M. Goóc-ba-chốp, những tổ chức này nhanh chóng chuyển hóa thành tổ chức chính trị đối lập, đóng vai trò trọng yếu trong việc hạ bệ uy tín của nhà nước, thúc đẩy hình thành chế độ đa đảng và giành chính quyền thông qua cái gọi là “bầu cử dân chủ”. Các cuộc “cách mạng đường phố” tại các nước khu vực Trung Ðông - Bắc Phi hay “cách mạng nhung”, “cách mạng màu” ở một số nước thuộc không gian hậu Xô-viết thời gian qua cũng cho thấy vai trò của các cơ quan đặc biệt nước ngoài, các NGO trong việc hỗ trợ các tổ chức XHDS trong nước lôi kéo, kích động quần chúng lật đổ các chính thể hợp pháp, gây nên tình trạng khủng hoảng chính trị, thậm chí có nước còn lâm vào cảnh chia rẽ, xung đột triền miên, lãnh thổ bị chia cắt lâu dài.
Chúng ta không phủ nhận vai trò nhất định của các tổ chức xã hội, hiệp hội, quỹ, diễn đàn,... nhất là khả năng tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội tại cộng đồng hay nhóm xã hội cụ thể; tập hợp nguyện vọng đa dạng của các tầng lớp trong xã hội phản ánh đến Đảng và Nhà nước; trực tiếp đứng ra cung ứng một số dịch vụ xã hội do Nhà nước ủy quyền, hoạt động trong khuôn khổ quy định pháp luật. Trên thực tế, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng thiết lập các tổ chức xã hội đa dạng theo ngành nghề, lợi ích, nhu cầu, nhân đạo, hữu nghị, sở thích... và không ngừng hoàn thiện quy định pháp luật để phát huy vai trò của các tổ chức này thật sự có ích cho xã hội, cho người dân. Các tổ chức NGO nước ngoài hoạt động tại nước ta thật sự có đóng góp cho cộng đồng, phát triển xã hội, tôn trọng pháp luật Việt Nam đều được tôn trọng, khuyến khích.
Nhưng cần thấy rõ rằng, ở nhiều quốc gia, nhất là những nước đang phát triển, sự hình thành các tổ chức của “XHDS” thường chịu sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó có các lực lượng chính trị từ bên ngoài thông qua nhiều hình thức và con đường khác nhau. Vậy chúng ta cần nhận thức về “XHDS” như thế nào?
Cùng với thực tế tồn tại và phát triển ngày càng phong phú của các tổ chức hội quần chúng, thuật ngữ “XHDS”, “tổ chức XHDS” được thảo luận, bàn luận khá sôi nổi ở nước ta. Tuy nhiên, đây là vấn đề chính trị, xã hội rất phức tạp, còn nhiều nhận thức khác biệt, thậm chí đối lập nhau, tùy thuộc vào góc độ tiếp cận. Hiện nay, đang tồn tại hai khuynh hướng nhận thức phổ biến về vấn đề XHDS: Một là, tuyệt đối hóa, đề cao quá mức vai trò của “XHDS”, cho rằng cần đẩy nhanh sự phát triển của “XHDS” ở Việt Nam, đồng nhất quá trình này với thực hiện dân chủ hóa, xem đây là “liều thuốc vạn năng” cho khắc phục những giới hạn của quản lý nhà nước và giải quyết tiêu cực trong đời sống xã hội phát sinh từ cơ chế thị trường; hai là, coi “XHDS” mang tính tiêu cực, “đối lập” với Nhà nước XHCN, là vấn đề nhạy cảm, nên né tránh, ngại đề cập và không khuyến khích nghiên cứu, tìm hiểu, thậm chí dựa vào các tổ chức xã hội hoạt động theo kiểu “bất tuân dân sự”, gây nên tình trạng vô chính phủ, bất ổn chính trị - xã hội ở nhiều nước trên thế giới rồi bài xích, phủ nhận sạch trơn vai trò các hội, quỹ, diễn đàn trong tham gia quản lý phát triển xã hội. Việc chưa thống nhất nhận thức khiến cho cách tiếp cận, ứng xử đối với vấn đề XHDS hiện nay của các cơ quan chức năng đang khá lúng túng. 
QUÂN ĐỘI ĐẤU TRANH VỚI ÂM MƯU, HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ "XÃ HỘI DÂN SỰ" ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; được Đảng, bác Hồ sáng lập và rèn luyện, thực sự là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng. Với chức năng của đội quân công tác, Quân đội cần thực hiện tốt các giải pháp:
Thứ nhất, cần nhận thức đầy đủ về XHDS và có cách “ứng xử” phù hợp với vấn đề “XHDS”. Phải thẳng thắn bác bỏ và phê phán, đấu tranh kiên quyết với các quan điểm khuyến khích, cổ vũ XHDS với ý đồ thúc đẩy hình thành các tổ chức chính trị đối lập. Hiện nay, nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến XHDS chưa được nghiên cứu thấu đáo, hiệu lực và công cụ quản lý của Nhà nước, ý thức pháp luật của người dân còn có những hạn chế. Do đó, nếu chúng ta buông lỏng, thả nổi cho sự hình thành, phát triển “XHDS” sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy phức tạp, khó kiểm soát, nhất là dưới góc độ quản lý nhà nước, cũng như bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và bảo vệ an ninh quốc gia.
Thứ hai, kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước có chủ trương, chính sách, biện pháp hạn chế đến mức thấp nhất những hệ lụy, ảnh hưởng tiêu cực của XHDS mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng chống phá cách mạng Việt Nam. Cần tổ chức nghiên cứu bài bản, có hệ thống về XHDS, các yếu tố của XHDS, nhất là làm rõ khái niệm, bản chất của XHDS; XHDS và các yếu tố cấu thành, biểu hiện cụ thể của XHDS; các hình thức của XHDS gắn với điều kiện lịch sử - cụ thể, nhất là chế độ chính trị, truyền thống văn hóa, trình độ phát triển kinh tế - xã hội; cấu trúc của XHDS và quan hệ của XHDS với nhà nước, thị trường, tôn giáo, mạng xã hội, gia đình; vai trò, ưu thế và giới hạn, mặt tiêu cực của XHDS; yếu tố ngoại sinh và nội sinh của XHDS; các hình thức lợi dụng XHDS của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị. Từ những kết quả nghiên cứu này sẽ giúp cho Đảng, Nhà nước chủ động có chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm quản lý các tổ chức xã hội, các NGO, vừa phát huy mặt tích cực, vừa định hướng hoạt động lành mạnh phù hợp với thể chế chính trị, đặc điểm về kinh tế, văn hóa và xã hội của đất nước, triệt tiêu các yếu tố có thể bị lợi dụng để hình thành lực lượng chính trị đối lập, gây bất ổn chính trị - xã hội. Đồng thời, làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân không bị các thế lực thù địch kích động, lôi kéo thông qua danh nghĩa tổ chức XHDS.
Thứ ba, trong điều kiện có sự tồn tại khách quan của một số loại tổ chức có tính chất “XHDS”, cần tham mưu cho Đảng, Nhà nước xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm phát huy đầy đủ vai trò của các tổ chức này, hạn chế những tác động tiêu cực của nó và có các biện pháp quản lý phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước, phù hợp với cơ chế vận hành của thể chế chính trị, giữ vững bản chất của chế độ. Sự quản lý và định hướng có hiệu quả, bằng pháp luật của Nhà nước sẽ tạo ra một môi trường dân chủ, lành mạnh cho sự phát triển hài hòa của toàn xã hội. Mặt khác, cần củng cố, đổi mới, phát huy tính tích cực và chủ động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội để làm tốt chức năng đoàn kết, tập hợp, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giám sát và phản biện xã hội, bảo vệ quyền lợi của nhân dân trước tác động bởi mặt trái của cơ chế thị trường và toàn cầu hóa.
Đồng thời, quán triệt tinh thần Đại hội XII của Đảng: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”(1), định hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội, hiệp hội, đoàn thể ở Việt Nam phải gắn liền với việc xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; gắn với đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện nền dân chủ XHCN.
Thứ tư, làm tốt công tác phối kết hợp với các lực lượng nòng cốt các cấp( nhất là công an) căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể được giao, vận dụng các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “XHDS” xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Trong đó, vấn đề cấp bách hiện nay là tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với các tổ chức hội và NGO Việt Nam, không để các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng tác động, chuyển hóa thành tổ chức XHDS theo tiêu chí phương Tây.
Đồng thời phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng khác đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận, ngăn chặn hoạt động truyền bá tư tưởng, thổi phồng, tuyệt đối hóa vai trò của XHDS theo mô hình, tiêu chí của phương Tây, cổ vũ thành lập các tổ chức chính trị đối lập, các tổ chức phản động dưới danh nghĩa, vỏ bọc của tổ chức “XHDS”.
Thứ năm, Tích cực tuyên truyền, vận động các nhân sĩ, trí thức, học giả đang sinh hoạt tại các hội, liên hiệp hội, tổng hội nâng cao cảnh giác trước luận điệu của các thế lực thù địch về cái gọi là “hình mẫu lý tưởng” của “XHDS” phương Tây, cũng như tích cực tham gia đấu tranh tư tưởng - lý luận. Đồng thời, vạch rõ những điểm không phù hợp (cả về lý luận và thực tiễn) của “XHDS” theo hình mẫu phương Tây đối với xã hội Việt Nam; vạch rõ mưu đồ chính trị của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị thông qua việc lợi dụng vấn đề “XHDS” để tác động, chuyển hóa chế độ chính trị tại Việt Nam. Bên cạnh đó, sử dụng các biện pháp, phương tiện ngăn chặn, vô hiệu hóa các con đường, cách thức truyền bá vấn đề “XHDS” theo hình mẫu phương Tây vào Việt Nam, đặc biệt là thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, hợp tác, trao đổi về văn hóa, khoa học, giáo dục - đào tạo... Đấu tranh, ngăn chặn, xử lý kịp thời hoạt động của các thế lực thù địch bên ngoài câu kết, hậu thuẫn cho số đối tượng chống đối trong nước thành lập các tổ chức phản động dưới danh nghĩa, vỏ bọc XHDS./.
NTK.HN.17.9.19

Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2019

"TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA" TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG


Vấn đề “tự diễn biến” xét từ góc độ là sự suy thoái về mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống dẫn đến “tự chuyến hóa” trong tổ chức, con người, trước hết là trong tổ chức đảng, tổ chức bộ máy Nhà nước, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt. Điều này đã từng diễn ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) Đông Âu trước đây.

 Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” do tác động của “diễn biến hòa bình” đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ XHCN, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy Nhà nước… Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa”.

Nhận diện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay được đề cập ở đây là quá trình “tự diễn biến” theo chiều hướng suy thoái. Và từ “tự diễn biến” đến một mức độ nào đó sẽ chuyển sang “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, có thể từng người đến đội ngũ. Nguy hiểm hơn là từ “tự chuyển hóa” con người, đội ngũ cán bộ, đảng viên có thể dẫn đến “tự chuyển hóa” của cả một tổ chức, nhất là tổ chức đảng và hệ thống chính trị, nếu chúng ta không có những biện pháp phòng, chống hữu hiệu.
“Tự diễn biến” trong cán bộ, đảng viên hiện nay có thể được biểu hiện ở cả trong nhận thức chính trị, đạo đức, lối sống, tư tưởng, niềm tin và ý chí quyết tâm hành động với các biểu hiện cụ thể, chẳng hạn: Suy giảm về nhận thức, về tư tưởng chính trị, ngày càng xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, xa rời lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xa rời Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xa rời đường lối của Đảng. Suy giảm niềm tin vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt. Suy giảm về phẩm chất đạo đức, lối sống, ngày càng xa rời những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức, lối sống XHCN, trượt dần sang đạo đức, lối sống tư sản, quay về với những thói hư, tật xấu của đạo đức, lối sống phong kiến…
“Tự diễn biến” trong cán bộ, đảng viên có thể diễn ra trước hết trong mỗi con người cán bộ, đảng viên với các mức độ và biểu hiện cụ thể khác nhau về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống. Và nếu không được phát hiện, phòng, chống kịp thời sẽ dần dần lan rộng theo nhiều chiều hướng: Từ cán bộ cấp thấp đến cán bộ cấp cao; từ cán bộ cấp cao xuống cán bộ cấp thấp; từ một số ít cán bộ, đảng viên đến số đông, cán bộ, đảng viên; từ cá nhân mỗi cán bộ, đảng viên đến tổ chức mà cá nhân cán bộ, đảng viên đó công tác, sinh hoạt./.

Tác hại của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên
Tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên cũng rất lớn. Tác hại đó không chỉ đối với vai trò của cán bộ, đảng viên mà còn đối với vai trò và sự lãnh đạo của Đảng; vai trò và sự quản lý, điều hành của bộ máy Nhà nước, của chính quyền các cấp; vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội và đối với sự tồn vong của chế độ XHCN ở nước ta.
Tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong con người cán bộ được biểu hiện ở chỗ: Cán bộ sẽ dần dần bị suy giảm về bản chất cách mạng, dần dần xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, xa rời hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sa sút về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, không còn khả năng tổ chức, tập hợp quần chúng quán triệt và thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không còn giữ được vai trò là “gốc của mọi công việc”, cuối cùng sẽ dẫn đến sự biến chất, sự chuyển hóa của cán bộ.
Tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong con người đảng viên được biểu hiện ở chỗ: Đảng viên sẽ dần dần bị suy giảm về bản chất cách mạng, dần dần xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, xa rời hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sa sút về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, không còn khả năng tổ chức, tập hợp quần chúng quán triệt và thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không còn giữ được vai trò là chiến sĩ tiên phong của Đảng, cuối cùng sẽ dẫn đến sự biến chất, sự chuyển hóa của đảng viên.
Tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên còn biểu hiện ở chỗ: Từ những hạn chế, yếu kém của cán bộ, đảng viên sẽ làm cho nhân dân suy giảm và mất dần niềm tin vào cán bộ, đảng viên, từ đó mà dẫn đến suy giảm và mất dần niềm tin vào vai trò và sự lãnh đạo của Đảng, vai trò và sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với xã hội, vào tính ưu việt của chế độ XHCN. Từ đó, nhân dân sẽ không tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không quyết tâm phấn đấu để thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Điều đó sẽ hạn chế việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Một số giải pháp phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên
Một là, thường xuyên tăng cường giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; về tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và những hạn chế không thể tránh khỏi trên con đường phát triển. Giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Nhận thức rõ những hạn chế, bất cập không thể tránh khỏi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế. Đồng thời, nhận thức đúng đắn, có cơ sở lý luận và thực tiễn về bản chất của chủ nghĩa tư bản. “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Tổ chức quán triệt triển khai thực hiện tốt trong thực tế công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quan tâm đến nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Lựa chọn các hình thức, biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên phù hợp với nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng và đối tượng giáo dục trong từng hoàn cảnh, từng nhiệm vụ. Chăm lo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nhất là đội ngũ cán bộ nòng cốt, chuyên trách về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng về cả số lượng, chất lượng và cơ cấu; về phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp, tác phong công tác; về thực hiện tốt các chế độ, chính sách. Không ngừng nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nhất là tính sắc bén, tính thuyết phục cao trong đấu tranh phòng, chống các luận điệu sai trái, thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Quan tâm bảo đảm các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, thông tin, tài liệu cho hoạt động nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, khả năng, điều kiện cụ thể.
Ba là, phải từng bước thông qua đường lối, chủ trương, chính sách và công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực tiễn để từng bước hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là ở vùng sâu, vùng cao, vùng xa, những căn cứ cách mạng trước đây và những gia đình, những cán bộ, đảng viên, những người có nhiều công lao đóng góp cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc với những chế độ, chính sách phù hợp.
Bốn là, chăm lo xây dựng nhân tố con người cán bộ, đảng viên, tăng cường “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch bằng “diến biến hòa bình”. Nâng cao sức “đề kháng” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trước sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập, nhất là trước sự cám dỗ của đồng tiền, của lối sống sa đọa. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, rèn luyện với tự giáo dục, tự rèn luyện, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất và năng lực, phương pháp, tác phong công tác, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, vừa “hồng” vừa “chuyên” như Bác Hồ đã dạy.
Năm là, cần phải tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn góp phần phát triển một cách sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền kịp thời, có định hướng đúng đắn nhằm cung cấp thông tin chính thống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bảo đảm cho việc tuyên truyền, giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách có cơ sở khoa học, thuyết phục.

Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2019


CÙNG HÀNH ĐỘNG

Hoạt động ngang ngược bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc trên Biển Đông trong thời gian vừa qua, đã gây quan ngại sâu sắc với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc, để bảo vệ lợi ích quốc gia, các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế đã lên án mạnh mẽ:

Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng: Việt Nam kiên quyết phản đối việc tàu Địa chất Hải Dương 8 tiếp tục các hành động vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên vùng biển của Việt Nam…

Philippines đã gửi công hàm phản đối sau khi phát hiện 113 tàu Trung Quốc hoạt động gần đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Và trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Lorenzana cho rằng, Trung Quốc hành động khác với những tuyên bố của họ về Biển Đông và "bắt nạt" Philippines khi chiếm bãi cạn Scarborough.

Trong thông cáo chung sau cuộc họp thường niên ngày 01/8/2019, các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đã bày tỏ quan ngại về việc cải tạo đất, các hoạt động và sự cố nghiêm trọng ở Biển Đông làm xói mòn lòng tin, gia tăng căng thẳng và có thể làm suy yếu hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ hôm 20/7 tuyên bố, việc Trung Quốc cải tạo và quân sự hóa các tiền đồn tranh chấp ở Biển Đông cùng với những nỗ lực khác nhằm khẳng định yêu sách hàng hải phi pháp ở vùng biển này như sử dụng lực lượng dân quân hàng hải để khiêu khích, đe dọa, áp chế các nước khác là phá hoại hòa bình và an ninh khu vực.

Trong tuyên bố chung 3 nước Anh, Pháp, Đức bày tỏ lo ngại tình hình Biển Đông bất ổn, mất an ninh trong khu vực, kêu gọi các bên thực hiện các biện pháp giảm căng thẳng, chú ý quyền của của những quốc gia ven biển trong vùng biển của họ và quyền tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông.

Tuyên bố của các nước trong khu vực và quốc tế trong thời gian qua đã tạo nên làn sóng phản đối mạnh mẽ các hành động xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc đối với vùng biển của Việt Nam. Để gìn giữ nền hoà bình, ổn định trong khu vực, hơn lúc nào hết các nước trong khu vực và trên thế giới phải cùng nhau hành động và hành động hơn nữa./. LVK

CẦN CẢNH GIÁC VỚI THÔNG TIN MẠNG

          Nhân loại đang sống trong những năm đầu của thế kỷ XXI, với sự bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ, thông tin, trong đó có sự phát triển mạnh mẽ của in-tơ-net. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của in-tơ-net, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng để đăng tải thông tin xấu độc, bịa đặt, bóp méo sự thật, xuyên tạc vấn đề làm “đổi trắng thay đen” và định hướng dư luận bằng luận điệu sai trái, thù địch.
          Trong những năm gần đây, đặc biệt là cuối năm 2018, đầu năm 2019, hoạt động của các thế lực thù địch và các tổ chức, cá nhân chống đối có nhiều diễn biến phức tạp, leo thang, nguy hiểm trên không gian mạng, công khai ý đồ lật đổ chính quyền “trước đây là tuyên truyền về nhân quyền, dân chủ, nhưng hiện nay trên không gian mạng, các thế lực thù địch đang bày tỏ một ý đồ rất rõ rệt là phải tập hợp được lực lượng và chờ đợi để lật đổ chính quyền”. Phương thức, thủ đoạn của các thế lực thù địch đang thay đổi theo hướng manh động, liều lĩnh, kết hợp giữa phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ, kích động xu hướng ly khai Đảng, bỏ Đảng gắn với hoạt động biểu tình, bạo loạn, khủng bố, ám sát cán bộ khi có cơ hội… Môi trường hoạt động chủ yếu là không gian mạng, chúng lợi dụng vào các trang mạng xã hội như facebook, youtube, zalo kết hợp với các báo đài ở bên ngoài, sử dụng các đối tượng trong nước để thu thập thông tin, trả lời phỏng vấn về các vấn đề nhạy cảm, phức tạp để phát tán thông tin, tài liệu, video tạo ra các chiến dịch truyền thông nhằm tuyên truyền phá hoại tư tưởng, tấn công trực diện vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của nhà nước và hệ thống pháp luật của Việt Nam. Chúng xuyên tạc, bôi nhọ, hạ uy tín lãnh đạo của Đảng, công khai bày tỏ quan điểm đối lập, khêu gợi hận thù chế độ, ca ngợi chế độ cũ, khai thác tâm lý bức xúc của người dân, gây chia rẽ trong quần chúng nhân dân… hoạt động tuyên truyền của các thế lực thù địch đã tác động thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nhiều trường hợp cán bộ, Đảng viên suy thoái đạo đức hoặc mất cảnh giác đã hưởng ứng tham gia tụ tập biểu tình gây mất an ninh trật tự, phát ngôn, trả lời phỏng vấn báo đài nước ngoài với nội dung xấu, hưởng ứng phong trào chống phá Đảng, bỏ Đảng…từ đây, nhằm tạo ra trong mắt nhân dân và cộng đồng quốc té một xã hội Việt Nam bất ổn về chính trị, một Nhà nước bị chia rẽ, một bộ máy công quyền tham nhũng, quan liêu.
          Từ thực tế đó, chúng ta cần phải phát huy vai trò đấu tranh của các cấp, các ngành, tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức, trách nhiệm và tinh thần cảnh giác cao của đội ngũ cán bộ, Đảng viên và quần chúng nhân dân. Phải tạo ra nhận thức đúng đắn, nhận diện được đầy đủ, khoa học, khách quan về tính hai mặt của in-tơ-net và các trang mạng xã hội; nhận biết đầy đủ âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động của các thế lực thù địch. Trên cơ sở đó, trang bị những kiến thức cần thiết để mỗi cán bộ, Đảng viên, quần chúng nhân dân có thể tự sàng lọc, tiếp cận những thông tin bổ ích, chính thống, tạo ra một hệ thống “miễn dịch” trước những thông tin xấu độc của các thế lực thù địch.
bg2505

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2019

Thấy gì qua sự việc lợi dụng mạng xã hội để xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của Lực lượng công an giao thông


Những ngày qua, báo chí đăng tải sự việc chị Phạm Thị H (SN 1997, trú tại huyện Ngọc Lặc, Thanh Hóa) bị xử lý hành chính với số tiền 7.5 triệu đồng vì đã đã xúc phạm danh dự, uy tín của lực lượng CSGT đang làm nhiệm vụ.

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG THÔNG TIN BỊA ĐẶT TRÊN MẠNG XÃ HỘI


Cùng với sự phát triển của xã hội thông tin, mạng xã hội nói chung và Internet nói riêng đã mang đến cho người dân lượng thông tin khổng lồ, cho phép tìm kiếm thông tin dễ dàng; gặp gỡ, giao lưu, gắn kết cộng đồng, trao nhận, chia sẻ tình cảm; tìm kiếm việc làm, quảng cáo, kinh doanh và giải trí. Mạng xã hội là mối quan hệ giữa con người với xã hội trên nền tảng Internet, mang lại những tiện ích giúp cho phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống, trao đổi thông tin trong cộng đồng xã hội. Bên cạnh những mặt tích cực thì mạng xã hội cũng để lại nhiều hệ lụy nguy hiểm, nguy cơ khó lường, đó là vấn nạn tin giả, tin có nội dung thiếu lành mạnh, phản giáo dục, bôi xấu, vu cáo, phản động, kích động bạo lực, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chống phá công công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta.

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2019

Đừng “lập lờ đánh lận con đen”
Việc Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát biểu với đảng viên trẻ tiêu biểu toàn quốc vừa qua; trong đó có nhắn nhủ họ phải trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Đó là nhắn nhủ và yêu cầu của người đứng đầu Đảng và Nhà nước hoàn toàn đúng về lý luận và thực tiễn.
Thế nhưng, có người lại phê phán, họ cho rằng, tại sao lại đặt Đảng lên trên Tổ quốc? Tổ quốc đã có hàng nghìn năm, mà Đảng chưa tròn 90 tuổi? Cần khẳng định đó là sự “lập lờ đánh lận con đen”.
Trước hết, họ đã đồng nhất Tổ quốc với dải đất hình chữ S, đồng nhất Tổ quốc với điều kiện tự nhiên, lịch sử. Nếu vậy, tại sao vẫn dải đất ấy, vẫn điều kiện tự nhiên, lịch sử ấy mà khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lại không có tên trên bản đồ thế giới? Vấn đề đặt ra là khi ấy ai mới là người làm chủ dải đất hình chữ S đấy? Có phải chế độ phong kiến Việt Nam hay thực dân Pháp? Nếu phong kiến thì tại sao lại không có tên Việt Nam trên bản đồ thế giới? Lúc này có gọi là Tổ quốc Việt Nam được không?
Thứ hai, để cấu thành tổ quốc, ngoài điều kiện tự nhiên, lịch sử thì yếu tố cơ bản không thể thiếu là vấn đề chính trị - xã hội, hay kiến trúc thượng tầng. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời lãnh đạo nhân dân ta đoàn kết đấu tranh chống sự xâm lược của thực dân Pháp, đập tan chế độ phong kiến, lập nên nhà nước công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước ấy có quốc kỳ, quốc ca riêng, có hiến pháp và hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, được cộng đồng quốc tế công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà nước ấy. Nhà nước công nông ấy dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam có quyền bình đẳng với các quốc gia - dân tộc trên thế giới. Việt Nam lại có tên trên bản đồ thế giới. Đấy mới là Tổ quốc Việt Nam hoàn chỉnh có đầy đủ hai yếu tố của một tổ quốc là (1). Về phương diện tự nhiên, lịch sử và (2). Về phương diện chính trị - xã hội. Thiếu một trong hai yếu tố trên thì không thể gọi là tổ quốc.

Như vậy, không có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta giành chính quyền từ tay thực dân Pháp thì không có Tổ quốc Việt Nam. Cho nên, nói phải trung thành với Đảng là để Tổ quốc mãi trường tồn. Khi nói trung thành với Tổ quốc được hiểu là phải có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia - dân tộc. Tất nhiên, Tổ quốc ấy để phục ai? Phục vụ nhân dân nên phải trung thành với nhân dân, phụng sự nhân dân bằng mọi điều kiện, khả năng của mình. Đấy mới là người đảng viên chân chính. Vậy thì, việc Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khi đề cập đến đạo đức của người cán bộ, đảng viên nói chung, đảng viên trẻ - người chủ tương lai của dân tộc phải trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân là phù hợp cả về lý luận thực tiễn và văn hóa, đạo đức. Xin đừng “lập lờ đánh lận con đen”./.

Gửi cho lãnh đạo Trung Hoa

Tổ cha lãnh đạo Trung Hoa.
Bọn mày chuyên giở những trò tiện nhân
Biển Đông dễ cũng mấy lần
Bọn mày cướp bóc đuổi dân lưới chài.
Việt Nam có bờ biển dài
Có đảo lớn nhỏ ở ngoài biển khơi.
Hoàng Sa sừng sững giữa trời.
Mày dùng vũ lực giết người cướp không.
Trường Sa biển đảo mênh mông.
Mấy ngàn năm trước dân không có mày.
Thời phong kiến Việt Nam đây.
Đưa dân ra đảo dựng xây trú đồn.
Vượt bao sóng dập mưa dồn
Con dân đất Việt mãi còn vươn khơi.
Đất, Biển, Đảo và bầu trời.
Việt Nam độc lập rạng ngời non sông.
Cùng chung dòng chảy Mê Kông.
Chúng mày cho chặn uốn dòng nước trôi.
Láng giềng lịch sử lâu đời
Bao phen sóng gió nhưng rồi cũng qua.
Chóp bu lãnh đạo Trung Hoa.
Bọn mày chuyên giở những trò lưu manh.
Cậy mình ở thế đàn anh.
Có tý tiềm lực nên thành kiêu căng.
Lịch sử đã chứng minh rằng
Mấy đời Hán, Tống hung hăng cũng tàn.
Đừng cậy thế mạnh làm càn.
Biển Đông không phải ao làng nhà bay.
Khôn hồn thì hãy bỏ ngay.
Ý định cướp biển nước này nghe không.
Dân tao không sợ mày đông
Bởi là “Nhân nghĩa” rộng lòng tha cho.
Việt Nam yêu chuộng tự do.
Độc lập, tự chủ chăm lo hòa bình.
Vài lời nhắn nhủ thân tình.
Gửi qua Trung Quốc triều đình nghe đi./.
Kết quả hình ảnh cho hải dương 8
Kết quả hình ảnh cho lãnh đạo trung quốc

Thứ Ba, 10 tháng 9, 2019

YÊU NƯỚC VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN MỘT CÁCH ĐÚNG ĐẮN


YÊU NƯỚC VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN MỘT CÁCH ĐÚNG ĐẮN
Trong thời gian gần đây, trước những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và thế giới, nhất là vấn đề Biển Đông, trên một số trang mạng xã hội đã xuất hiện những quan điểm, ý kiến của những “công dân”, “nhà báo”, “người yêu nước”… dưới các hình thức “lời kêu gọi”, “phản biện”, “kiến nghị” “góp ý”… trong đó nổi bật là bài viết “Nhục đến mấy đời” của Trân Văn. Nội dung bài viết là tập hợp những ý kiến “phản biện” nhảm nhí,  xuyên tạc, đổi trắng thay đen của những facebooker đội lốt “yêu nước”. Bản chất đó là những “chiêu” mới của một âm mưu cũ mà những kẻ đội lốt “yêu nước” đang tìm cách “đục nước béo cò”; từ đó, kích động, chia rẽ nhân dân với Đảng và Nhà nước; chia rẽ mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam – Trung Quốc, gây mất ổn định chính trị xã hội, cản trở quá trình phát triển của đất nước.
1. Việt Nam – Trung Quốc – mối quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời
Với tư duy và nhận thức “đất nước sẽ sớm rơi vào vòng nô lệ Tàu Cộng thôi!” của các Facebooker thể hiện cái nhìn phiến diện, lệch lạc do hạn chế về nhận thức, xử lý thông tin hay là sự xuyên tạc trắng trợn, sự nham hiểm, tinh vi của các thế lực phản động, thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình”. Tuy nhiên, lịch sử đã chứng minh, Việt Nam – Trung Quốc là hai nước láng giềng, núi sông liền một dải. Nhân dân hai nước có mối quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời. Ngày 18/01/1950, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhà nước đầu tiên trên thế giới thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đặt mốc lịch sử quan trọng trong mối quan hệ lâu đời giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc. Được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo tiền bối đặt nền móng và dày công vun đắp, quan hệ láng giềng hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc đã trở thành tài sản chung quý báu của cả hai dân tộc. Hơn 65 năm qua, quan hệ giữa hai nước tuy có trải qua thăng trầm và những bất đồng cần được giải quyết song, quan hệ hợp tác song phương tiếp tục có nhiều bước phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực, nhất là hợp tác kinh tế đã đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân cả hai nước. Trong 4 tháng đầu năm 2019, kim ngạch thương mại Việt – Trung đạt 33,24 tỷ USD (tăng 11,58%) so với cùng kỳ năm 2018. Tính đến cuối tháng 5/2019, Trung Quốc có 2.387 dự án đầu tư có hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 15,1 tỷ USD, đứng thứ 7/131 quốc gia và vùng lãnh thổ. Về du lịch, bốn tháng đầu năm 2019, có 1,3 triệu lượt du khách Trung Quốc đến Việt Nam. Sự phát triển ổn định và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong những năm qua càng khẳng định sự cần thiết và tính đúng đắn trong duy trì, phát triển mối quan hệ truyền thống, hữu nghị giữa Việt Nam – Trung quốc. Với những suy nghĩ thiển cận như Trần Văn, người viết tự hỏi “ai mới là kẻ nô lệ” đây? Xin đừng xuyên tạc một cách ngu muội đi ngược lại đường lối của Đảng, lợi ích của nhân dân và kích động bạo lực, kích động chiến tranh và hận thù dân tộc, phá hoại tình hữu nghị tốt đẹp của nhân dân hai nước Việt – Trung.
2. Tăng cường quan hệ hữu nghị, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt – Trung là yêu cầu khách quan, phù hợp với lợi ích cơ bản, lâu dài của nhân dân hai nước, có lợi cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, việc mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước nói chung, với Trung Quốc nói riêng là yêu cầu khách quan. Điều này vừa cho phép tận dụng và phát huy được lợi thế của mỗi nước phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định của cả Việt Nam và Trung Quốc; phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân hai nước. Tuy nhiên, trong quan hệ với các nước, trong đó có Trung Quốc, việc xuất hiện các bất đồng là khó tránh khỏi, quan trọng là những bất đồng đó được quan tâm giải quyết nhằm tạo đồng thuận chung.
Những con người đang mang danh “yêu nước” nhưng lại luôn coi đất nước phải “nô lệ”, “đứng sau” các nước lớn vốn dĩ cũng chỉ là những kẻ bất tài chẳng giúp gì được cho sự phát triển của dân tộc. Chúng ta hãy yêu nước đúng cách, hãy bảo vệ độc lập, chủ quyền một cách đúng đắn. Không mắc mưu các thế lực thù địch làm tổn hại đến quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các nước và lợi ích quốc gia – dân tộc./.
                                                                NTK. HN. 10.9.2019

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2019

CÁCH XỬ SỰ TRỊCH THƯỢNG CỦA TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG SẼ LÀM HỎNG CHIẾN LƯỢC “VÀNH ĐAI - CON ĐƯỜNG” CỦA CHÍNH MÌNH.


CÁCH XỬ SỰ TRỊCH THƯỢNG CỦA TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG SẼ LÀM HỎNG CHIẾN LƯỢC “VÀNH ĐAI - CON ĐƯỜNG” CỦA CHÍNH MÌNH.



 Ảnh: Sự phong tỏa của Mỹ và phương Tây đối với Trung Quốc - Những hướng phát triển của Trung Quốc - Hai cánh của chiến lược “Vành đai-Con đường”






Từ ngày 3-7-2019, Trung Quốc điều động nhóm tàu khảo sát biển Haiyang Dizhi 8 gồm 1 tàu khảo sát địa chất đáy đại dương, từ 3 đến 5 tàu cảnh sát biển và hàng chục tàu đánh cá có trang bị vũ khí nhẹ xâm phạm vùng Đặc quyền kinh tế (EEZ) và Thềm lục địa (CS) của Việt Nam tại khu vực ngoài khơi, phía Đông Bà Rịa – Vũng Tàu. Ngày 16-7-2019, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã trao công hàm phản đối hành động này của Trung Quốc. Nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có các nước ASEAN lên án hành động có tính gây hấn này của Trung Quốc. Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 52 họp tại Bangkok, Thái Lan (AMM-52) đã ra tuyên bố chung coi những hành động của Trung Quốc đã gây ra những sự cố nghiêm trọng trong khu vực, làm xói mòn lòng tin, gia tăng căng thẳng và có thể làm suy yếu hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực. Ngoại trưởng các quốc gia là quan sát viên của ASEAN như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Australia, Ấn Độ… cũng chỉ trích chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông, buộc Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị (cũng là quan sát viên) phải tìm cách xoa dịu hội nghị và hứa sẽ mau chóng đạt được thỏa thuận về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông COC trong thời hạn 3 năm tiếp theo.
Tiếp theo AMM-52, 26 quốc gia và tổ chức tham dự Diễn đàn Khu vực ASEAN lần thứ 26 (ARF-26) cũng tại Bangkok ngay sau đó gồm gồm 10 nước ASEAN và Mỹ, Nga, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Ấn Độ, Triều Tiên, Hàn Quốc, Đông Timor, Canada, Mông Cổ, Australia, Bangladesh, New Zealand, Pakistan, Papua New Guinea, Sri Lanka (trừ Trung Quốc) cũng bày tỏ quan ngại trước tình hình diễn biến phức tạp tại Biển Đông với những sự cố nghiêm trọng xảy ra trong thời gian gần đây. Các ngoại trưởng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì hoà bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông, đề cao luật pháp quốc tế theo Công ước Luật biển 1982. Hội nghị kêu gọi các bên kiềm chế, không làm phức tạp thêm tình hình và thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), hướng tới một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) có hiệu lực, thực chất và phù hợp với luật pháp quốc tế.
Tuy nhiên, các nước Mỹ, Nhật, Australia .v.v… mới chỉ đề cập đến việc Trung Quốc “cản trở việc khai thác dầu khí ở Biển Đông” cũng như việc bảo đảm an toàn và tự do giao thông hàng hải, hàng không ở Biển Đông cũng như các vấn đề chỉ liên quan đến Biển Đông. Các cơ quan truyền thông cũng chỉ truyền đi những luận đàm ở cả AMM-52 và ARF-26 xung quanh vấn đề an ninh ở Biển Đông và các khu vực có liên quan như Bác đảo Triều Tiên, Biển Hoa Đông .v.v…
Kể từ năm 1991 đến nay thì đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông và không chỉ gây hấn đối với Việt Nam, mặc dù Việt Nam là quốc gia bị Trung Quốc xâm phạm vùng biển và hải đảo nhiều nhất. Những nước ven Biển Đông từng bị Trung Quốc uy hiếp còn có cả Philippines, Malaysia và Indonesia. Một số câu hỏi đã được đặt như: Tại sao lại là Biển Đông mà không phải là Biển Hoa Đông hoặc Hoàng Hải ? Tại sao Việt Nam lại bị Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển-đảo nhiều nhất ? Tại sao Trung Quốc lại có những hành động gây hấn nghiêm trọng trên Biển Đông vào những năm 2014, 2016 và 2019 ? Việc Trung Quốc cứ khăng khăng bám lấy những lập luận vô giá trị về “đường lưỡi bò” có phải chỉ vì lợi ích của Trung Quốc ở Biển Đông hay không ? Có phải chỉ vì vấn đề dầu khí hay không ? Mục tiêu sâu xa của những hành động ấy của Trung Quốc là gì ?
Xem xét toàn bộ những vấn đề trên, chúng ta có thể thấy việc Trung Quốc điều nhóm tàu Haiyang Dizhi 8 xâm phạm EEZ và CS của Việt Nam nhằm khá nhiều mục tiêu. Vì thế, chúng ta hãy tìm lời giải cho từng câu hỏi một.
Câu hỏi 1: Giấc mơ Trung Hoa cần được gọi cho chuẩn hơn là “Giấc mơ toàn cầu hóa kiểu Trung Quốc”.
Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, người Mỹ nói chung và giới tư bản cá mập cầm quyền ở Mỹ đã có thể ước vọng một “Giấc mơ Mỹ”. Tuy nhiên, giấc mơ ấy không đơn giản như suy nghĩ tầm thường của một số người coi nước Mỹ là “thiên đường hiện hữu” trên trái đất này để mơ ước được sống ở đó; để hưởng thụ, để tự do, kể cả tự do giết người và tự do làm đĩ.
Đối với giới tinh hoa của nước Mỹ, “Giấc mơ Mỹ” là giấc mơ “Toàn cầu hóa kiểu Mỹ”, đặt nước Mỹ vào vị trí trong tâm của nhân loại và nước Mỹ là kẻ thống trị thế giới. Điều này không phải là không có cơ sở thực tế khi xét đến năng lực của nền kinh tế Mỹ với GDP trên 20.000 tỷ USD/năm, với nền khoa học và công nghệ phát triển bậc nhất thế giới, với tiềm năng quân sự ở mức không có đối thủ toàn cầu, với đồng Dollar Mỹ đang ở vị trí độc quyền thống lĩnh tiền tệ toàn cầu, được đặt trên bộ ba trụ đỡ vững chắc là Quỹ tiền tệ quóc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) và Cơ quan dự trữ liên bang (FED).v.v… Đó còn là một loạt các cơ quan của Mỹ có vai trò toàn cầu như Cơ quan phát triển quốc tế Mỹ (USAID), Quỹ Vì dân chủ (NED). Không những thế, Mỹ còn nắm trong tay một loạt các cơ quan truyền thông hàng đầu thế giới, độc quyền không gian mạng toàn cầu Internet, độc quyền hệ thống định vị toàn cầu GPS .v.v…
Với những ưu thế ấy, những độc quyền ấy, sao lại không thể nghĩ đến một “Toàn cầu hóa” kiểu Mỹ, do Mỹ điều khiển được ?
Thế nhưng sau 30 năm trở thành “công xưởng của thế giới”, lặp lại vai trò của nước Anh thế kỷ thứ XVIII và nước Mỹ thế kỷ thứ XIX nhưng ở một cấp độ phát triển công nghệ hiện đại hơn hẳn, Trung Quốc, được Mỹ và phương Tây “vỗ béo” bằng những khoản đầu tư khổng lồ đã vươn lên trở thành kẻ thách thức vị trí số 1 thế giới của Mỹ. Bất chấp những hậu quả bất bình đẳng xã hội tăng cao, những nguy cơ bất ổn do tốc đọ phát triển kinh tế quá nhanh, những “bong bóng kinh tế-xã hội” có thể nổ bất kỳ lúc nào do nền kinh tế phát triển quá nóng. Chỉ trong 35 năm, Trung Quốc đã đạt được những kết quả mà người Anh phải mất 200 năm, người Mỹ phải mất 100 mới đạt được.
Và từ những kết quả này, ý tưởng về một “Giấc mơ Trung Hoa” dần dần hiện hữu.
Đây là điều hợp với quy luật vận động bình thường của xã hội loài người trong điều kiện phân hóa giai cấp và phân chia dân tộc. Trong điều kiện có tính bắt buộc của hai sự phân hóa và phân chia ấy, bất cứ một quốc gia nào có tiềm lực ở vào vị thế “cường quốc” đều có xu hướng phát triển với mục tiêu trở thành “thủ lĩnh khu vực”, xa hơn là “bá chủ liên khu vực” và cao hơn hết thảy là “bá chủ toàn cầu”. Lịch sử loài người từ Ai Cập cổ đại, Ấn Độ cổ đại, Lưỡng Hà cổ đại, Hy Lạp cổ đại, La Mã Cổ đại và đương nhiên và cả Trung Quốc cổ đại đều ghi nhận quy luật ấy. Riêng đối với Trung Quốc thì đó là nơi duy nhất mà nền văn minh cổ đại của nó vẫn được bảo tồn một cách tương đối trọn vẹn trong một quốc gia lâu đời bậc nhất thế giới, với đầy đủ văn tự sử học và di tích khảo cổ học. Và chính lịch sử Trung Quốc cũng phản ánh quy luật ấy ở thời “Xuân Thu-Chiến Quốc” (thế kỷ VII TCN đến thế kỷ III TCN) bằng chuỗi mô hình: “xưng Bá – xưng Hùng – xưng Đế”.
Những nhà lãnh đạo của Trung Quốc kể từ sau khi Mao Trạch Đông qua đời đều rất chú ý đến một quy luật được học thuyết Marx-Enghels-Lenin đúc kết, đó là chu kỳ luân chuyển ngôi bá chủ của thế giới tư bản của các nước phương Tây được xác định bằng các mô hình chủ nghĩa tư bản trên thực tế. Chu kỳ này mở đầu bằng mô hình chủ nghĩa tư bản Hà Lan, một thứ chủ nghĩa tư bản sơ khai dựa trên trụ cột là tài chính-ngân hàng với quy luật “tư bản cho vay, tư bản đầu tư” làm chủ đạo. Kế tiếp là mô hình chủ nghĩa tư bản Anh lấy “công nghiệp hóa” thế hệ thứ nhất làm chủ đạo, đồng thời kế thừa mô hình chủ nghĩa tư bản tài chính-ngân hàng của Hà Lan. Mô hình chủ nghĩa tư bản Anh thống trị thế giới suốt gần 200 năm. Nước Anh trở thành hình mẫu cho sự phát triển của một loạt các nước đế quốc như Pháp, Đức, Ý, Mỹ và kể cả nước Nga Sa hoàng.
Hai cuộc chiến tranh thế giới kế tiếp nhau trong nửa đầu thế kỷ XX đã làm suy yếu mô hình chủ nghĩa tư bản Anh. Trong khi đó, ở Tây Bán Cầu và không phải chịu cảnh “bom rơi đạn nổ”, nước Mỹ vươn lên vị trí công xưởng hàng đầu thế giới nhưng với một nền khoa học kỹ thuật hiện đại hơn mô hình chủ nghĩa tư bản Anh gấp nhiều lần. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc thì cũng là lúc mô hình chủ nghĩa tư bản Mỹ khẳng định vị trí dẫn đầu thế giới với những lợi thế kể trên.
Cuộc ‘Chiến tranh Lạnh” tuy có làm chậm lại sự vươn lên đứng đầu thế giới của nước Mỹ nhưng không đủ mạnh để làm hỏng mô hình chủ nghĩa tư bản Mỹ với nền khoa học và công nghệ vượt trội cũng như nền tài chính-tiền tệ thống trị toàn cầu. Thị trường chứng khoán New York trở thành thị trường vốn đầu tư trung tâm của thế giới, đẩy thị trường chứng khoán London xuống hàng một thị trường chứng khoán khu vực.
Học tập những ưu điểm của các mô hình của các chu kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa trước đó, kết hợp với những bài học lịch sử phát triển quốc gia-dân tộc của chính mình, các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc thời hậu Mao Trạch Đông đã chấp nhận sự phát triển của nền kinh tế tư bản dưới sự quản lý của một nhà nước được tổ chức theo mô hình xã hội chủ nghĩa với một Đảng Cộng sản duy nhất lãnh đạo. Thậm chí, họ còn chấp nhận cả hình thức tổ chức hành chính “một nước hai chế độ” trong khi dần dần hạn chế các quyền tự trị của bố khu vực dân tộc thiểu số đong dân gồm Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông và Choang được biểu tượng bằng 4 ngôi sao nhỏ trên quốc kỳ Trung Quốc.
Với sức mạnh của một nền kinh tế có GDP hàng năm trên 12.000 tỷ USD, đứng thứ 2 toàn cầu (chỉ sau Mỹ), tương đương với EU và xếp trên Nhật Bản, người Trung Quốc cho rằng “thời của họ đã đến”. Theo sự vận động luân chuyển có tính chu ký của chủ nghĩa tư bản thì mô hình “Chủ nghĩa tư bản-xã hội Trung Quốc” (hay gọi khác đi về hình thức là “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc”) sẽ thay thế mô hình chủ nghĩa tư bản thuần túy của Mỹ bởi cấp độ hiện đại hóa cao hơn nhiều do tận dụng được sự phát triển hanh hơn vũ bão của nền khoa học công nghệ toàn cầu.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc hoàn toàn có cơ sở lý luận và thực tiễn để hiện thực hóa tham vọng “Giấc mơ Trung Hoa” của họ. Và học cũng nhận thức được những gì cản trở họ trên con đường hiện thực hóa giấc mơ đó. Sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, người Trung Quốc đã định hình một chiến lược đột phá mới, vượt ra khỏi giai đoạn “náu mình chờ thời” để vươn tới “Giấc mơ Trung Hoa” mà thực chất là đại chiến lược “Toàn cầu hóa kiểu Trung Quốc”. Đó là sáng kiến “Vành đai-Con đường”
Câu hỏi 2: “Vành đai-Con đường” sẽ trở thành viển vông nếu Biển Đông không được bảo đảm an ninh và an toàn.
Trong thời hiện đại, vì bị khống chế bới quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1946 rằng tất cả các vùng đất đai bị chiếm đóng bằng vũ lực đều là lãnh thổ bất hợp pháp nên tất cả các nước đế quốc đều chuyển trọng tâm chiếm lĩnh ra biển và đại dương. Nhưng thế giới không phải chờ đến quy định của Liên Hợp Quốc mới chuyển trọng tâm chiến lược ra biển và đại dương. Bởi 3/4 diệt tích bề mặt trái đất là biển và đại dương và nguồn lợi thù được thù biển và đại dương (bao gồm cả dưới đáy đại dương) lớn gấp nhiều lần nguồn lợi thu được trên đất liền nên kẻ nào chiếm lĩnh biển và đại dương nhiều hơn, khai thác biển và đại dương nhiều hơn sẽ có nhiều tiềm năng hơn để trở thành kẻ thống trị thế giới.
Từ bài học lịch sử của chính mình và của nhân loại, đặc biệt là kinh nghiệm từ các mô hình đế quốc tư bản Hà Lan, Anh, Mỹ cũng như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha .v.v… sau hàng thiên niên kỷ chỉ chăm lo mở rộng lãnh thổ trên đất liền, người Trung Quốc nhận ra rằng muốn thống trị thế giới, muốn trở thành “bá chủ thiên hạ” thì trước hết phải trở thành “bá chủ đại dương”.
Kể từ khi thiết lập nền Cộng hòa Nhân dân năm 1949, Trung Quốc bị bao vây từ hướng biển bởi hai vành đai kiềm tỏa của Mỹ và phương Tây. Đó là vành đai phong tỏa bên ngoài gồm các chuỗi đảo từ Aleuchien qua Midwey đến quần đào Mariana, dọc xuống phía Nam qua Bắc Australia và kéo dài đến căn cứ liên hợp Diego Garcia trên Ấn Độ Dương. Đó là vành đai phong tỏa bên trong từ Nhật bản, Hàn Quốc ở Đông Bắc Á qua Đài Loan, qua Philippines, qua Biển Đông xuống Malaysia, Singapore, xuyên Ấn Độ Dương và nối với Tây Nam Á.
Các hướng bành trướng trên bộ của Trung Quốc cũng đều vướng phải những nước, những vùng lãnh thổ mà Trung Quốc từng “gây sự” hoặc là cựu thù của Trung Quốc như Liên Xô, từng bị Trung Quốc gọi là “đế quốc xã hội chủ nghĩa”; Ấn Độ, dù bị ngăn cách bởi dãy núi Himalaya hiểm trở nhưng đã có cuộc chiến tranh Trung-Ấn năm 1962; Nhật Bản, cựu thù duy nhất chiếm đóng và tàn sát người Trung Quốc trong Chiến tranh thế giới thứ hai; Việt Nam, một dân tộc nhỏ bé nhưng “cứng đầu” với 14 lần đánh đuổi quân xâm lược Trung Quốc ra khỏi bờ cõi.
Trong điều kiện ấy, con đường phát triển xuống Biển Đông là duy nhất khả quan đối với Trung Quốc. Mở cửa được Biển Đông cũng có nghĩa là chọc thủ được vòng phong tỏa của Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến người cộng sản Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông đặc biệt quan tâm giúp đỡ những người cộng sản Việt Nam trong các cuộc chiến tranh giành và giữ vững nền độc lập. Một trong những kết quả của cuộc Kháng chiến chống Mỹ của quân và dân Việt Nam là đẩy đuổi đế quốc Mỹ ra khỏi Biển Đông. Một kết quả có lợi cho Trung Quốc
Tuy nhiên, cản trở tiếp theo đối với chiến lược “mở cửa” Biển Đông lại là sự “cứng đầu” của Việt Nam. Từ năm 1977, Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền của mình đối với ít nhất 1/3 diện tích Biển Đông, bao gòm cả quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đã đánh chiếm từ tay quân ngụy Sài Gòn năm 1974. Ngay từ những năm 1980, Việt Nam cũng đã cương quyết bác bỏ cái gọi là “đường 9 đoạn” trên Biển Đông do Trung Quốc tự vẽ ra; đồng thời, kiên quyết bảo vệ những vùng biển thuộc chủ quyền của mình ở Biển Đông. Đó chính là một trong những nguyên nhân khiến giới lãnh đạo Trung Quốc thời đó tiếp tay cho tập đoàn diệt chủng Pol Pot – Yeng Sari tấn công xâm lược Việt Nam và trực tiếp đưa 60 vạn quân xâm lược Việt Nam nhằm làm Việt Nam suy yếu đến kiệt quệ khi vừa ra khỏi chiến tranh hòng thao túng giới lãnh đạo Việt Nam, buộc Việt nam phải từ bỏ chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và đi theo quỹ đạo của Trung Quốc.
Sự yểm trợ tích cực của Liên Xô đối với Việt Nam trong những năm 1979-1990 cũng như sự có mặt của Hạm đội Thái Bình Dương hùng hậu của Liên Xô trên Biển Đông cùng với căn cứ liên hợp không-hải quân Cam Ranh cũng là sự cản trở lớn nhất, làm chậm trễ kế hoạch “mở cửa Biển Đông”. Do đó, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu từ năm 1989 đến năm 1991 mặc dù có gây cho Trung Quốc một số phiền toái (các đồng minh xã hội chủ nghĩa như Romania, Albania… quay lựng lại với trung Quốc, vụ Thiên An Môn này 4-6-1989 .v.v…) nhưng xét về chiến lược “Mở của Biển Đông” thì lại có lợi cho Trung Quốc. Một cách ngẫu nhiên, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Au giúp Trung Quốc loại thêm được mọt trở ngại lớn ở Biển Đông trong khi người Mỹ chưa kịp quay trở lại. Đó chính là lý do mà từ năm 1994 đến nay, Trung Quốc liên tiếp có những hành động gây hấn ở Biển Đông, xâm phạm chủ quyền của các nước ven Biển Đông, đặc biệt là Việt nam, Philippines và Malaysia.
Sau những sự đụng độ bằng súng đạn giữa Trung Quốc và Philippines ở khu vực “Đá Vành Khăn” (Mischief Reef) từ năm 1995 đến năm 1996, một số học giả Mỹ và phương Tây cho rằng: “Sau sự sụp đổ của Liên Xô, một khối quyền lực mới đã xuất hiện. Nó giàu có. Nó mang tính bành trướng. Nó làm rộng ra sự khác biệt văn hóa với phương Tây. Nó cay đắng vì quá khứ của nó…” và “nhiều hậu quả không mong muốn sẽ xảy ra nếu chính sách của phương Tây, nhất là của Mỹ đối với Trung Quốc bị buông trôi”. Đến đây, cần nói thẳng rằng người Mỹ và phương Tay đã tiếp tục buông trôi chính sách đối với Trung Quốc thêm hơn 10 năm nữa để lao vào “cuộc chiến chông khủng bố”. Còn người Việt Nam thì từ cổ chí kim chưa bao giờ buông trôi chính sách của mình đối với Trung Quốc.
Lợi dụng sự buông trôi chính sách ấy, Trung Quốc đã nhiều lần sử dụng vũ lực đối với các nước ASEAN đi kèm với những thủ đoạn chiêu dụ như “gác tranh chấp, cùng khai thác”, hoặc “chỉ đàm phán song phương, không đàm phán đa phương” hoặc “không cho các thế lực bên ngoài Biển Đông can dự vào công việc ở Biển Đông” .v.v… để lừa mị các quốc gia ven Biển Đông. Tất cả đều chỉ nhằm các mục tiêu: Một là cô lập Biển Đông ra khỏi vai trò quốc tế của nó để lấy áp lực nước lớn chèn ép các nước nhỏ yếu buộc họ phải nhượng bộ Trung Quốc. Hai là chia rẽ khối ASEAN, chia rẽ các nước ven Biển Đông để bẻ đũa từng chiếc. Tuy nhiên, sau gần 20 năm thi thố, những thủ đoạn này đã thất bại về cơ bản.
Đối với vấn đề Biển Đông thì trong chính giới Trung Quốc cũng có hai phe “diều hâu” và bồ câu” hệt như trên chính trường Mỹ. Phe “diều hâu” đòi hỏi phải sử dụng vũ lực quân sự mạnh mẽ để nhanh chóng mở cửa Biển Đông, không để các quốc gia bên ngoài khu vực có thời gian kịp can thiệp để phản kích. Phe “bồ câu” thì tính toán đến việc sử dụng các biện pháp kinh tế và ngoại giao để “chiêu dụ” các nước ven Biển Đông đặc biệt là những nước mà theo họ luôn có thái độ “dĩ hòa vi quý” như Malaysia, Singapore, Thái Lan, Campuchia và cả những nước không liên quan trực tiếp đến Biển Đông như Myanma và Lào. Họ cho rằng những biện pháp “chiêu dụ” này sẽ cô lập Việt Nam và Philippines, hai nước đang nắm giữ hai cánh cửa quan trọng nhất trên Biển Đông.
Thế nhưng ngay cả khi đưa cả “bồ câu” hay “diều hâu” vào cuộc thì cả hai vấn đề tối quan trọng nhất mà Trung Quốc mong muốn vẫn không thể đạt được.
Trước hết, các nước ASEAN, theo sang kiến của Việt nam đã mời các quốc gia tuy không tiếp giáp với Biển Đông nhưng co quyền lợi trực tiếp hoặc gián tiếp ở Biển Đông cùng ngồi vào bàn thương nghị ARF về bảo đảm an ninh ở Biển Đông. Chính điều này đã dẫn đến một tình huống cô lập về ngoại giao đối với Trung Quốc tại Bangkok vừa qua. Hai là tại AMM-52, các nước ASEAN đã ra một tuyên bố chung, trong đó đặc biệt nhất mạnh đến việc bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải và hàng không ở Biên Đông, kiên quyết lên án các hành động quân sự hóa ở Biển Đông và cần chặn đứng những âm mưu dùng vũ lực để xâm phạm chủ quyền của các nước ven Biển Đông.
Lẽ ra với tình huống này, người Trung Quốc phải nhận ra rằng, các quốc gia ASEAN đã có sự tiến bộ vượt bậc về nhận thức đối với vấn đề Biển Đông rằng Biển Đông không chỉ có vấn đề dầu lửa hay băng cháy mà quan trọng hơn còn là tuyến đường hàng hải huyết mạch đối với Đông Bắc Á và đối với cả Trung Quốc; rằng Biển Đông còn có tầm quan trọng đặc biệt đối với sang kiến “Vành đai-Con đường” của Trung Quốc. Các nước ASEAN cũng hiểu rất rõ rằng nếu xảy ra một sự cố nào đó mà Biển Đông bị đóng cửa, các nước ven Biển Đông bất hợp tác với trung Quốc thì ít nhất là một nửa cái sáng kiến “Vành đai-Con đường” của Trung Quốc cũng tan thành mây khói. Điều đó sẽ làm hỏng “con đường tơ lụa trên biển” của Trung Quốc, một trong hai cái “cánh” mà Trung Quốc đang muốn có để tiếp tục bay lên, thoát khỏi vòng phong tỏa của Mỹ và phương Tây.
Biển Đông có thể giúp Trung Quốc cất cánh bằng chiến lược “Vành đai-Con đường” nhưng nó cũng chính là “gót chân Asin” của cái chiến lược ấy nếu như Tung Quốc vẫn tự coi mình là một “kẻ bề trên”, tự coi mình đã là “bá chủ toàn cầu” theo kiểu “chưa đõ ông nghè đã đe hàng tổng”.
Sự kiện Trung Quốc điều động nhóm tàu khảo sát Haiyang Dizhi 8 xâm phạm EEZ của Việt Nam trong thời điểm này dù chưa phải là việc sử dụng lực lượng quân sự ở Biển Đông nhưng điều đó cũng đủ chứng tỏ tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” giữa hai phái “diều hâu” và “bồ câu” trong chính giới Trung Quốc. Và nó cũng chứng tỏ một điều rằng muốn hợp tác làm ăn thì bất kể là nước lớn hay nước nhỏ, chớ nên cậy mình là nước lớn để áp đặt cho nước nhỏ những điều kiện có loại cho mình, và cũng đừng mơ đến việc có thể dùng vũ lực khuất phục nước nhỏ.
Vì thế, bất kỳ một hành động trịch thượng nào của Trung Quốc khi giải quyết vấn đề chủ quyền ở Biển Đông để có níu kéo cái luận điệu “đường 9 đoạn” hay “vùng nước lịch sử” cũ rích đều có nguy cơ làm thất bại chiến lược “Vành đai-Con đường” của Trung Quốc trên hướng biển và đại dương. Còn nếu chỉ sử dụng “Con đường tơ lụa trên bộ” xuyên qua Trung Á, Nga, hay Thổ Nhĩ Kỳ sang Châu Âu thì các đoàn tàu hỏa và ô tô của Trung Quốc cũng không hơn gì những đoàn lạc đà cách đây hàng nghìn năm. Tuy nó không bị các toán giặc cướp uy hiếp nhưng tình hình chính trị bất ổn ở những nước mà “đoàn lạc đà” ấy đi qua chính là những mối đe dọa không kém gì những toán cướp thời trung cổ./.
                                                                      DANTRI65