Thứ Ba, 14 tháng 11, 2023

KHÁT VỌNG DÂN TỘC VÀ SỨC MẠNH NIỀM TIN CỦA NHÂN DÂN

     Khát vọng dân tộc có vai trò rất quan trọng, nó là động lực trung tâm tạo nên sức mạnh vô song cho dân tộc. Khát vọng dân tộc, nếu được định hướng và hình thành dựa trên những đường lối, chủ trương đúng đắn sẽ trở thành nguồn năng lượng nội sinh tiềm tàng và sống động cho toàn bộ quá trình phát triển. Khát vọng dân tộc thể hiện nhu cầu, ước vọng của đại đa số cộng đồng cư dân trong một quốc gia và nó chịu sự tác động bởi các điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

    Mỗi thời kì, mỗi giai đoạn, khát vọng dân tộc sẽ được cụ thể hóa dựa theo những tiêu chí của nhà quản lí. Như dưới thời kì phong kiến, sau khi đã dành được độc lập, tự chủ thì khát vọng xây dựng xã tắc thái bình, thịnh trị là đích đến của các triều đại phong kiến. Hay như ở thời điểm năm sau 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập thì lý tưởng của toàn thể dân tộc là xây dựng đất nước tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, khát vọng dân tộc giữ vai trò chủ đạo trong giai đoạn này chính là độc lập và tự do. Sau khi thống nhất đất nước, để thực hiện lý tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội, khát vọng dân tộc lại được Đảng, Nhà nước cụ thể hóa dựa theo từng giai đoạn, từng lộ trình khác nhau.

    Niềm tin vào sự nghiệp độc lập, tự do của đất nước mà Nguyễn Ái Quốc đã bôn ba khắp “bốn bể, năm châu” tìm kiếm con đường cứu nước, cứu dân. Trước vòng vây của chủ nghĩa thực dân, phong kiến, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (1930) và trở thành ngọn cờ tiên phong trong các phong trào đấu tranh cách mạng. Trong những ngày đầu vô cùng khó khăn ấy, niềm tin của nhân dân lại được khơi dậy để nuôi nấng, bao bọc, chở che cho Đảng, cho lí tưởng mà toàn thể dân tộc hướng đến. Dù có không ít người bị bắt bớ, giam cầm nhưng vẫn kiên quyết giữ vững lời thề sắt son theo Đảng. Bởi với họ, một khi đã tìm được lí tưởng, niềm tin, tức là đã tìm thấy được sức mạnh, tìm được điểm tựa tinh thần và động lực cho cuộc sống. Lý tưởng ấy đã soi sáng niềm tin cho nhân dân, mà nòng cốt là giai cấp công nhân và nông dân hăng hái bước vào cuộc đấu tranh, làm nên các cao trào cách mạng (1930 - 1931; 1936 - 1939).

    Sau cách mạng tháng Tám, đất nước đứng trước vô vàn những khó khăn thử thách “ngàn cân treo đầu sợi tóc”, nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Hồ Chủ tịch, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có những chủ trương, đường lối đối nội, đối ngoại thiết thực để củng cố tình hình đất nước, phát huy sức mạnh niềm tin của nhân dân. Đáp lời hiệu triệu của cách mạng, hơn 20 triệu đồng bào đã đoàn kết một lòng cùng nhau thắt lưng, buộc bụng để “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, hăng hái tham gia “tuần lễ vàng”, “quỹ độc lập”, thực hiện phong trào “tăng gia sản xuất”, “bình dân học vụ” và đoàn kết thống nhất để chống thù trong giặc ngoài. Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi (1954) đã chính thức khép lại giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp hào hùng của dân tộc. Đồng thời, thắng lợi này cũng đã minh chứng một chân lý mà các dân tộc bị áp bức trên thế giới đều có thể tin tưởng rằng: Một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển, nếu có một đảng mác xít chân chính lãnh đạo với đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, được nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ thì nhất định đánh bại được các cuộc chiến tranh xâm lược của mọi kẻ thù.

    Sau khi thống nhất đất nước, cả nước quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sức mạnh niềm tin của nhân dân tiếp tục được huy động cho công cuộc đổi mới. Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình. Văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố. Tình hình chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững. Vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Khát vọng phồn vinh, hạnh phúc và sức mạnh tiềm tin của nhân dân trước yêu cầu mới của đất nước.

    Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc gắn liền với quá trình xây dựng và phát huy hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và giá trị chuẩn mực, cùng sức mạnh con người Việt Nam trong thời kỳ mới gắn liền với phát huy đồng bộ hệ động lực phát triển: Dân chủ xã hội chủ nghĩa; đại đoàn kết toàn dân tộc; sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị; nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

    Những năm gần đây, đánh dấu chặng đường 35 năm đổi mới của đất nước. Những thành quả đạt được từ trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước đã cho phép Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam hướng đến khát vọng lớn hơn là phồn vinh, hạnh phúc. Khát vọng phồn vinh, hạnh phúc chính là sự kết tinh bản lĩnh, trí tuệ của Đảng dựa trên sự đúc kết những kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước. Đó không phải là khát vọng giản đơn, xuôi chiều, mà được bồi đắp trên cơ sở phân tích, dự báo, lường đoán kỹ lưỡng những thời cơ, thuận lợi có thể nắm bắt, phát huy; đồng thời tỉnh táo cân nhắc, tính toán những khó khăn, thách thức bên ngoài, những yếu kém, trở ngại bên trong cần phải kiên quyết khắc phục, thích ứng, vượt qua. Đó cũng là sự vận dụng phương châm dĩ bất biến ứng vạn biến, nhạy bén chớp thời cơ, chủ động ứng phó với nguy cơ, chuyển hóa nguy cơ thành vận hội phát triển.

    Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”, chỉ có sức mạnh của tinh thần đoàn kết mới mang lại cho dân tộc một sự phát triển ổn định và thịnh vượng, mới giúp dân tộc thành công trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và niềm tin chính là mẫu số chung có giá trị cao nhất để thúc đẩy các thành viên trong xã hội xích lại gần nhau, đoàn kết, gắn bó keo sơn với nhau trong một chỉnh thể nhà nước, quốc gia thống nhất./.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét