ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VTND - NGUYỄN THỊ ĐỊNH : SỐNG LÀM TƯỚNG - CHẾT THÀNH THẦN
CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG
Là con út của 10 anh em trong một gia đình nông dân nghèo, nhưng giàu lòng yêu nước tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, Nguyễn Thị Định sinh ngày 15-3-1920. Lớn lên, Út Định trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, nhưng trong cảnh nước mất nhà tan, vượt qua cuộc sống bình thường của một cô thôn nữ, bà sớm giác ngộ và lựa chọn con đường đi theo cách mạng đầy gian khổ, hy sinh từ năm mới 16 tuổi. 2 năm sau, bà được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Trong thời gian này, bà xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn Bích (Ba Bích), một trong số các đồng chí cùng hoạt động với anh của mình - ông Nguyễn Văn Chẩn (Ba Chẩn). Trong kháng chiến bà lấy tên Ba Định, theo thứ của chồng, ít người biết tên Út Định. Hạnh phúc chưa được bao lâu thì giông tố ập đến. Mới sinh con trai được 3 ngày, bọn mật thám đến bắt ông Bích. Từ khi chồng bị bắt vào tù, bà chỉ được bồng con đến thăm ông có một lần thì ông Bích bị Pháp đày đi Côn Đảo. Năm 1943, bà và đứa con mới 7 tháng tuổi lại bị mật thám vây bắt. Chúng đưa hai mẹ con bà về Khám Lá Bến Tre, bà buộc phải gửi con về nhà, trước khi đi đày đến Bà Rá. Tại đây, bà nhận tin ông Ba Bích đã hy sinh ngoài Côn Đảo. Đau đớn tột cùng, bà vẫn nhớ lời chồng dặn dò “Dấn thân vào con đường cách mạng là phải chịu gian khổ, hy sinh”. Nhờ lời dặn dò đó đã làm bà có nghị lực để đứng vững cho đến khi ra tù.
Năm 1944, bà Nguyễn Thị Định bắt liên lạc với Đảng, quyết tiếp tục theo con đường gian khổ, hy sinh mà mình và người chồng quá cố đã chọn. Trong khí thế hừng hực của Cách mạng Tháng Tám, người góa phụ 25 tuổi đã dẫn đầu hàng ngàn quần chúng tràn vào cướp chính quyền tại thị xã Bến Tre. Khi Pháp trở lại đánh chiếm Nam Bộ, bà công tác tại Tỉnh Đoàn Phụ nữ cứu quốc. Tháng 4-1946, bà được cử tham gia đoàn vượt biển bằng thuyền từ huyện Thạnh Phú ra miền Bắc báo cáo với Bác Hồ về tình hình chiến trường Nam Bộ, đồng thời xin chi viện vũ khí đánh Pháp và sau đó làm trưởng đoàn vận chuyển 12 tấn vũ khí từ Bắc về Nam an toàn. Chuyến vượt biển lịch sử từ Nam ra Bắc đầu tiên này đã mở ra con đường huyền thoại “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, cho cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này.
Về lại Bến Tre, năm 1947, bà Nguyễn Thị Định được bầu vào Tỉnh ủy. Năm 1951, thời điểm gian khó nhất của tỉnh, bà được tăng cường về lãnh đạo huyện Mỏ Cày, có thời điểm phải rời địa bàn sang đứng chân trên đất Trà Vinh, Vĩnh Long.
▪ NỮ TƯỚNG TRONG LÒNG NHÂN DÂN
Hiệp định Genève được ký kết năm 1954, bà Nguyễn Thị Định được cử ở lại miền Nam hoạt động bí mật, trong điều kiện cực kỳ khó khăn, gian khổ, biết bao lần vào sinh ra tử, nhờ sự yêu thương đùm bọc của nhân dân bà vẫn được an toàn. Cuối năm 1959, với cương vị là Phó bí thư Tỉnh ủy, bà được cử đi tiếp thu Nghị quyết số 15 và về Bến Tre đầu năm 1960, bà trực tiếp truyền đạt lại cho Tỉnh ủy. Chính bà Nguyễn Thị Định là người gọi cuộc nổi dậy khởi nghĩa tại Bến Tre bằng khái niệm “Đồng khởi” đầu tiên và là người trực tiếp chỉ đạo cuộc “Đồng khởi” đợt I, nổ ra ngày 17-1-1960, cũng từ đây ra đời “Đội quân tóc dài” huyền thoại và phương châm tiến công địch bằng “ba mũi giáp công” - chính trị kết hợp với vũ trang và binh vận, cách đánh địch sáng tạo tuyệt vời của chiến tranh nhân dân, đã nhanh chóng lan ra toàn miền Nam, làm thất bại hết chiến lược chiến tranh này đến chiến lược chiến tranh khác của Mỹ - ngụy, đến sụp đổ hoàn toàn 30-4-1975.
Sau cuộc Đồng khởi thắng lợi vang dội, bà Nguyễn Thị Định được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Năm 1961, bà là Khu ủy viên Khu 8. Năm 1964, bà được bầu là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Năm 1965, tại Đại hội Phụ nữ toàn miền Nam, bà được bầu là Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (lúc đang giữ cương vị Bí thư Trung ương Cục miền Nam) đã từng nói: “Một người phụ nữ đã chỉ huy thắng lợi cuộc Đồng khởi ở Bến Tre thì người đó rất xứng đáng được làm tướng và ở trong Bộ Tư lệnh đánh Mỹ”. Cũng năm 1965, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh mời bà sang gặp Bộ Tư lệnh Miền, giao nhiệm vụ: “Bác Hồ và Bộ Chính trị quyết định rút chị lên làm Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Ngoài công tác chung, Bộ Tư lệnh phân công chị theo dõi chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích, đấu tranh chính trị”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự hào nói về Nguyễn Thị Định: “Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”. Bà giữ cương vị này từ năm 1965, đến ngày 17-4-1974, chính thức được phong quân hàm Thiếu tướng. Từ năm 1965 - 1975, bà đã có nhiều đóng góp xứng đáng vào thắng lợi chung của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Sự có mặt của bà trong Bộ Chỉ huy Miền đã góp phần làm cho cái nhìn của lãnh đạo, chỉ huy toàn diện, thấu đáo hơn trong lãnh đạo cuộc chiến tranh nhân dân. Mùa xuân 1975, trong 5 cánh quân rầm rập tiến về giải phóng Sài Gòn, có nữ tướng Nguyễn Thị Định trong vai trò Phó Tổng tư lệnh quân giải phóng.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bà Nguyễn Thị Định giữ nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước như: Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV, V, VI; Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI, VII, VIII; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Từ năm 1987 - 1992, bà giữ chức Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Đất nước thống nhất, thanh bình, nhưng đời riêng bà đã chịu những hy sinh mất mát hết sức lớn lao, hai nỗi đau tột cùng: lần thứ nhất, ông Ba Bích hy sinh và lần thứ hai là đứa con trai duy nhất đang học ở miền Bắc, bị bệnh qua đời (ngày 4-5-1960) giữa lúc cao trào Đồng khởi đang diễn ra rầm rộ tại quê hương Bến Tre.
Từ trong muôn vàn gian khổ, bao lần vào sinh ra tử, trải qua 2 cuộc kháng chiến, cho đến khi giữ cương vị cao trong bộ máy Nhà nước, bà Nguyễn Thị Định luôn giữ phẩm chất nhân ái, rộng lượng, bao dung, sống chan hòa, gần gũi, chân tình với mọi người. Bà như một người chị, người cô, tận tụy chăm sóc từ cơm ăn, áo mặc cho các chiến sĩ, đồng chí, đồng đội; cảm thông sâu sắc những nỗi đau, mất mát và sự hy sinh cao cả của nhân dân, luôn chia sẻ một cách tinh tế và đầy tình người. Những lần về lại quê hương Bến Tre, bà đều dành thời gian gặp gỡ, ân cần thăm hỏi và tìm mọi cách giúp đỡ những anh chị em, bạn bè, đồng chí hoạt động kháng chiến cùng thời; cũng như nhân dân trên địa bàn căn cứ cách mạng, từng đùm bọc cưu mang những người kháng chiến trong những năm chiến tranh gian khó. Có thể nói, cái tên chị Ba, cô Ba, bà Ba đã quen thuộc, thân thương, không chỉ sống mãi trong lòng nhân dân quê hương Bến Tre và cả nước, mà còn vượt ra xa, cả với bạn bè năm châu.
▪ SỐNG LÀM TƯỚNG, CHẾT THÀNH THẦN
Ngày 26-8-1992, trái tim của vị nữ tướng huyền thoại Nguyễn Thị Định ngừng đập. Tuổi thanh xuân bà đã chịu đựng biết bao gian khổ, hy sinh, cả cuộc đời sống trọn vẹn với quê hương, non sông, đất nước, đã có nhiều đóng góp lớn lao cho Tổ quốc, với nhân dân. Bà được Nhà nước tặng thưởng 2 Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất và nhiều huân chương cao quý khác. Năm 1968, bà được nhận giải thưởng Hòa bình quốc tế Lê-nin. Ngày 30-8-1995, bà được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Để tri ân công lao đóng góp của Nữ tướng Nguyễn Thị Định, nhân dân đã lập Khu lưu niệm Nguyễn Thị Định (nhân dân quen gọi là “Đền thờ Bà Ba”) được xây dựng tại ấp Phong Điền, xã Lương Hòa (Giồng Trôm), nơi bà sinh ra và khánh thành vào ngày 20-12-2003. Từ đó đến nay, nhân dân và khách về thăm Bến Tre thường đến viếng và thắp hương tưởng niệm. Để lớp trẻ, hậu thế học tập và noi theo gương, phát huy truyền thống yêu nước, thương dân của bà, bên cạnh đền thờ có trường THPT mang tên Nguyễn Thị Định; một con đường từ TP. Bến Tre về quê hương Giồng Trôm cũng được nhân dân đặt tên Nguyễn Thị Định. Nhân dân Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội, nơi thờ Hai Bà Trưng đã rước bát hương thờ bà Nguyễn Thị Định về thờ trong khu đền Hai Bà Trưng như một vị nhân thần mới.
Sinh thời, nhà sử học Trần Văn Giàu trong lời đề tựa tập sách “Nhớ chị Ba Định” đã viết: “… Những người như chị là sống làm tướng, chết thành thần”. Sự ca ngợi, tôn vinh cao đẹp đó quả không sai. Nữ tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Thị Định đã thành thần trong lòng nhân dân quê hương Bến Tre và cả nước ta.
Vũ Hồng Thanh ..Báo đồng khởi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét