Kinh nghiệm lịch sử của Đảng cho thấy, khi có một đường lối
đúng, một đội ngũ cán bộ, đảng viên ngang tầm trọng trách và được nhân dân ủng
hộ, không có lực lượng nào cản được thành công. Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới
hiện nay, trong điều kiện hội nhập quốc tế, một trong ba việc đó khiếm khuyết
hoặc yếu kém, nhất định Đảng không đảm đương được nhiệm vụ, khó có thể đứng
vững và chế độ bị đe dọa. Vì vậy, việc phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp... là việc rất cấp bách và rất
quan trọng, liên quan tới sự tồn vong của Đảng, của Nhà nước, của chế độ ta và
vị thế đất nước ta trên trường quốc tế.
Công việc
trọng tâm và hết sức khó khăn
Xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, không
chỉ là mục tiêu lý tưởng chính trị mà còn là nhu cầu phát triển của dân tộc và
đất nước ta, là nguyện vọng của nhân dân ta. Nói cụ thể, độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa
xã hội là lý tưởng chính trị, là nguyên tắc chính trị, là cương lĩnh hành động
chính trị và là đạo
lý sống của Đảng ta, nhân dân ta, dân tộc ta và đất nước ta.
Đó cũng là con đường chính trị, là đạo lý sống để phát triển mạnh mẽ và bền
vững duy nhất đúng để đất nước ta tiến lên ngang tầm thời đại. Đó là một trong
những vấn đề sinh tử quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng, sự tồn
vong của Đảng, của Nhà nước và chế độ ta. Bị lôi kéo hay cố ý, trực tiếp hay
gián tiếp, nếu suy nghĩ và hành động chệch, xa rời, trái hoặc cản trở những
điều đó, dù xét dưới bất cứ góc độ nào, có thể nói đều gây tổn hại tới sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đó chính là những biểu hiện
chính yếu của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối
sống.
Thực tế
đã và đang cho thấy, sự suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức và lối sống
không chỉ tiềm tàng ở một nơi nào đó mà nó hiện diện tại không ít nơi, không
chỉ ở một vài người hay nhóm người nào đó mà đáng lo ngại là, hiện diện khá
rộng, sâu và phức tạp trong một bộ phận đáng kể đội ngũ cán bộ, đảng viên. Ngay
từ năm 1999, Đảng ta chỉ rõ: “...Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp
cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị (tôi
nhấn mạnh - NL)... của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển
nghiêm trọng hơn”(1). Tại Đại hội IX (2001), Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Trong
công tác xây dựng Đảng... chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư
tưởng chính trị và đạo đức, lối sống”(2); và Đại hội X (2006) chỉ rõ: “Thoái
hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi... Đó là một nguy cơ
lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”(3). Tới Đại hội XI (2011),
Đảng ta tiếp tục cảnh báo: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp... làm giảm lòng tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”(4).
Năm năm sau, tại Đại hội XII, Đảng ta vẫn cảnh báo và đặt ra trọng trách: “Đấu
tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”(5). Đây là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, ít nhất trong tầm
nhìn tới năm 2021.
Tối thiểu
như thế, hiện nay vấn đề này quan
trọng và cấp bách, mang ý nghĩa thành bại, sinh tử đối với
chúng ta tới mức nào.
Góp phần
nhận diện và dự báo sự suy thoái mới và phức tạp về chính trị, tư tưởng, đạo
đức và lối sống trong cán bộ, đảng viên
Những
biểu hiện suy thoái chính trị trong Đảng hết sức phức tạp, tinh vi, dưới nhiều
hình thức và mức độ khác nhau. Song, có thể nói gọn lại, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức
là sự tha hóa và thoái hóa về nhận thức chính trị và hành động chính trị của
cán bộ, đảng viên trực tiếp gây tổn hại đến vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu và
uy tín chính trị của Đảng, chức năng, vai trò và trọng trách quản lý, điều hành
của Nhà nước và sức mạnh của hệ thống chính trị đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta.
Trước
hết, đó là sự thờ ơ
chính trị, thờ ơ lương tri hay lãnh đạm chính trị, lãnh đạm lương tri.
Sự bàng quan với thời cuộc và tình hình đất nước; sự “thúc thủ”, “rũ áo xuôi
tay”, “lạnh tanh máu cá, nhiệt tình độ âm” trước vận mệnh của Đảng, của dân
tộc, sự lẩn tránh trách nhiệm của chính mình... đã và đang trở thành phương
châm hành xử của không ít người. Đó chính là hành động “trùm chăn”, “án binh
bất động”; là thái độ “sống chết mặc bay”, “cháy nhà hàng xóm bình chân như
vại”... Nói chính xác, sự thờ ơ chính trị là đồng nghĩa với sự tê liệt về ý chí
cách mạng chiến đấu, thụ động, tự hạ vũ khí chiến đấu, tự tước bỏ vị thế của
người chiến sĩ tiên phong, tự làm mờ nhạt, “tan rữa” mình và vô hình cổ vũ cho
cái xấu, cái ác ngóc đầu dậy và hoành hành. Đó là một điều nguy hiểm. Ngạn ngữ
từng có câu và thực tiễn lịch sử cũng chứng minh: Không làm một điều gì có nghĩa là đã
làm một điều xấu xa; và không có gì đáng hổ thẹn hơn về mặt đạo đức là sự thờ ơ
với vận mệnh của Tổ quốc mình.
Ở góc độ
khác, suy thoái tư tưởng chính trị là sự dao động chính trị, tha hóa đạo đức. Đó là sự
mất thế ổn định vững chắc về tư tưởng, tinh thần và sự nao núng, ngả nghiêng
trong hành động trước sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đó
là sự giảm sút niềm tin xã hội chủ nghĩa, là sự “nhạt Đảng”, “nhạt lý tưởng xã
hội chủ nghĩa”; nhận thức mơ hồ, lệch lạc về chủ nghĩa Mác - Lê-nin và chủ
nghĩa xã hội, về đường lối, chủ trương của Đảng... Đặc biệt, trước những bước
ngoặt của cách mạng, họ hồ nghi sự đúng đắn của mục tiêu chính trị và thậm chí
ngả theo luận điệu cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã lỗi thời (!), họ “giữ
thân”, “sống chết mặc bay”... không dám hoặc không dám công khai đấu tranh với
các quan điểm, hành vi trái với quan điểm của Đảng, thậm chí a dua, cổ súy cho
những tư tưởng đó, v.v.. rồi mất phương hướng tư tưởng, mất khả năng chủ động
kiểm soát và điều chỉnh hành động của mình, từ đó rơi vào tình trạng hoặc “tả”
khuynh hoặc hữu khuynh hoặc chiết trung chủ nghĩa, hoặc tự phát manh động, hoặc
phiêu lưu chính trị... Đó là những con
lắc đơn về tư tưởng chính trị, là tập hợp hỗn mang của
thứ “đạo đức tùy thời”,
“đạo đức con buôn”...
Sự suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức cũng được biểu hiện thành thói thực dụng chính trị, thực dụng đạo
đức.Đó là tình trạng phân liệt cực tả về tư tưởng, hành động và lối
sống. Nghĩa là, họ chỉ nhằm vào những gì mang lại lợi ích cho mình (và phe nhóm
mình) một cách nhất thời, trước mắt mà không quan tâm tới lợi ích chung của
cách mạng, của nhân dân, thậm chí chà đạp lên chúng, cốt mưu chiếm đoạt cho lợi
ích riêng của mình, của phe nhóm mình. Từ đó tạo nên tình trạng cát cứ, phe
nhóm, phường hội theo kiểu “trên có chính sách, dưới có đối sách”, hành xử theo
lối “đạo đức cho người và đạo đức cho ta”... vô hình phá vỡ tính thống nhất và
chỉnh thể của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, “băm nhỏ”
và “chia phần”, xâm hại lợi ích chung bằng “nhát dao của tên đao phủ”, như cách
nói của H.Ban-dắc, hình thành và lũng đoạn xã hội bằng lợi ích nhóm và những
nhóm lợi ích... làm phân liệt ý chí và rã rời sức mạnh của tổ chức, làm suy nhược
sức mạnh đất nước. Và, V.I. Lê-nin gọi đó là một sự “man rợ”.
Ở mức độ
trầm trọng và nguy hiểm là, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức được hiện
diện bằng tình trạng cơ hội chính trị, cơ hội về đạo đức. Đó là thói tùy thời
thỏa hiệp vô nguyên tắc, là hành động lợi dụng cơ hội nhằm chiếm đoạt lợi ích
trước mắt và cục bộ, bất kể việc làm đó đúng hay sai, như kiểu “mượn gió bẻ
măng”, “đục nước béo cò”, ngả nghiêng, xoay xở, “gió chiều nào che chiều ấy”,
sống dua, tìm kiếm “ô, dù” trong các chuyến “buôn quyền lực”, kèn cựa, gây bè
kéo cánh, thậm chí vu cáo, bôi nhọ đồng chí, gây rối nội bộ... V.I. Lê-nin chỉ
rõ: Họ xác định thái độ của mình tùy theo hoàn cảnh, thích ứng với những sự
biến trước mắt, với những biến đổi của những sự kiện chính trị nhỏ nhặt, quên
mất lợi ích sống còn của giai cấp vô sản..., hy sinh những lợi ích sống còn ấy
vì những lợi ích thực tế hay những lợi ích giả định tạm thời - đó là chính sách
của bọn xét lại. Và từ chính thực chất của chính sách ấy nảy sự thật hiển nhiên
là: chính sách ấy có thể mang những hình thức hết sức muôn hình muôn vẻ và mỗi
vấn đề hơi “mới” một chút, mỗi sự thay đổi hơi bất ngờ và đột ngột một chút của
những sự biến - dù sự thay đổi ấy chỉ làm thay đổi đường lối căn bản của sự
phát triển trong một mức độ rất nhỏ và trong một thời gian ngắn nhất chăng nữa
- nhất định bao giờ cũng đẻ ra biến tướng này hay biến tướng khác của chủ nghĩa
xét lại. Đây là một căn bệnh cực kỳ nguy hiểm trong Đảng, đặc biệt là tình
trạng “cơ hội giấu mặt”. Bằng “vỏ bọc cộng sản”, dưới danh nghĩa tiếp tục “đổi
mới”, họ đòi xét lại cơ sở, nền tảng lý luận và tư tưởng của Đảng, đường lối
chính trị của Đảng trên những phương diện cốt tử nhất; cổ súy cho tư tưởng và
quan niệm đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập; gắn kết chủ nghĩa cơ hội với
chủ nghĩa bè phái và cục bộ địa phương, hình thành các “ô, dù”, cánh hẩu trong
Đảng, phân hóa một bộ phận đội ngũ đảng viên của Đảng, làm biến chất, phân rã
và tê liệt không ít tổ chức đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức,v.v.. Ở
họ chứa đựng thứ “đạo đức ba mặt”: cao đạo trong cuộc họp, trí trá ngoài hành
lang và nịnh bợ trước cấp trên - hành xử cốt sao có lợi cho họ, dù hại đồng chí
mình và tổ chức. Họ sợ sự thật và tìm cách bóp nghẹt, thậm chí chà đạp những
người trung trinh. Đó là những con “kỳ
nhông chính trị”, “con trùng biến hình đạo đức” trong Đảng.
Một lần nữa, cần khắc sâu và cảnh báo: Sự
suy thoái về đạo đức là con đường ngắn nhất dẫn tới sự băng hoại về chính trị;
đến lượt nó, sự băng hoại về chính trị dẫn tới “cái chết về đạo đức”.
Biểu hiện
tập trung nhất, cao nhất và nguy hiểm nhất của suy thoái tư tưởng chính trị
là tham nhũng chính
trị, phản bội chính trị, thối rữa tư tưởng và băng hoại đạo đức... tạo nên
những “kẻ thù giấu mặt”, những “liên minh tội phạm”. Họ cho mình
cái quyền sở hữu quyền lực chính trị mà nhân dân ủy thác cho họ thành “của
riêng” để đổi chác, ban phát cho “nhóm”, thành hàng hóa mưu toan định giá bán
mua... Tất cả “gieo” mầm họa trong cán bộ: tệ “chạy” (chức quyền, tuổi tác,
luân chuyển, bằng cấp...); tệ gian dối (trước cấp trên, cấp dưới và nhân dân);
tệ “đạo vị”, nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh, tức là “ăn trộm chức quyền”; v.v..
Đó cũng là sự quay quắt về tư tưởng chính trị và giả trá về đạo đức, sự ngả hẳn
hành động về phía kẻ thù chống lại cách mạng, phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân ta, mà trước hết là, phá vỡ
Đảng một cách toàn diện công cuộc đổi mới, chống lại dân tộc và nhân dân. Có
người kêu gào đòi lập đảng đối lập với Đảng ta... Nếu sự phản bội chính trị, sự
tan rã đạo đức nằm trong những cán bộ cốt cán của Đảng, ở những phương diện và
bộ phận quan trọng của Đảng thì hậu quả càng và khôn lường. Bài học về sự tan
vỡ của một số đảng cộng sản gần đây đã cảnh báo điều đó. Đây là những giặc nội xâm nguy hiểm nhất, những
“cục bướu ác tính” tích tụ và phát tác trong nội bộ làm Đảng rã
rời, có nguy cơ đột quỵ, đội ngũ rối loạn, chế độ tan vỡ, hậu họa đối với dân
tộc khôn lường.
Hậu họa
cần lường trước và ngăn chặn; những nguyên nhân cần nắm bắt và chủ trị
Tất
nhiên, những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức trên không diễn ra
một cách độc lập, khép kín; mà trái lại, chúng vận động hết sức uyển chuyển,
xuyên thấm vào nhau rất tinh vi và chuyển hóa rất phức tạp. Cái này là điều
kiện, là tiền đề, là môi trường dung dưỡng của và cho cái kia; và ngược lại.
Tất cả tích tụ, và cóp thể biến thành một thế lực có sức phá hoại ghê gớm và
khôn lường.
Kinh
nghiệm lịch sử chỉ rõ, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức của đảng
viên, nhất là đảng viên giữ chức vụ cao cấp trong bộ máy của Đảng và Nhà
nước là con đường ngắn
nhất và trực tiếp hạ thấp, thậm chí thủ tiêu vai trò chính trị, thực lực chính
trị và uy tín chính trị của Đảng và Nhà nước ở mức độ trầm trọng. Nghĩa
là, từ sự suy thoái về đạo đức, về tư tưởng chính trị trong Đảng, tới mức nào
đó, dẫn tới nguy cơ chệch hướng về chính trị và đẻ ra một nền chính trị suy
thoái, một nền móng đạo đức chính trị suy đồi... chỉ là một bước chuyển ngắn.
Và từ đó có thể dẫn tới nguy
cơ về một nền chính trị, đạo đức suy thoái, dẫn tới chệch hướng xã hội chủ
nghĩa, tới mức không thể kiểm soát.
Sự suy
thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống đó trực tiếp làm cho Đảng
đánh mất bản chất giai cấp công nhân, đánh mất vị trí và vai trò tiên phong của
người lãnh đạo công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa; và tất nhiên sẽ
không còn là đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể
dân tộc Việt Nam. Đảng ta chỉ rõ: “... Khi nào xa rời bản chất giai cấp công
nhân, bản chất cách mạng và niềm tin cộng sản thì khi đó mắc sai lầm, khuyết
điểm, thậm chí dẫn đến sai lầm về đường lối”(6). Và nếu không kịp thời sửa
chữa, tới một mức nào đó, Đảng sẽ bị biến chất, chế độ xã hội chủ nghĩa bị thay
đổi, Nhà nước không còn là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân nữa.
Các biểu
hiện trên là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân (dưới mọi hình thức), chủ nghĩa thực
dụng và chủ nghĩa cơ hội với nhiều biến thể, nhất là trong điều kiện hiện nay.
Đặc biệt, trước sự thoái trào tạm thời của phong trào xã hội chủ nghĩa, với âm
mưu “diễn biến hòa bình” của kẻ thù, thậm chí “tự diễn biến” trong nội bộ càng
làm cho tình hình càng phức tạp, nặng nề hơn. Nhưng điều cần nhấn mạnh là, các
biểu hiện đó được dung dưỡng bởi cơ sở kinh tế - xã hội của nền sản xuất nhỏ,
tâm lý tiểu tư sản, di họa tư tưởng đạo đức phong kiến và tư sản còn khá dai
dẳng và thịnh hành ở một số nơi, một số người giữ trọng trách. Điều cảnh báo
là, những biến tướng mới về chủ
nghĩa thực dụng, tham nhũng quyền lực, chủ nghĩa con buôn... đang lây lan. Toàn
bộ bối cảnh này diễn ra trong điều kiện nước ta từng bước chuyển sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế với muôn mặt phức
tạp của nó, nên sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống càng
có cơ hội lan rộng.
Nhưng, có
thể nói thực trạng trên cơ bản và trước hết bắt nguồn từ chỗ, các cán bộ, đảng
viên này kém rèn luyện, tu dưỡng bản thân; thiếu bản lĩnh chính trị, bản lĩnh
sống lại bị chi phối bởi những tác động tiêu cực bởi mặt trái nền kinh tế thị
trường, mở cửa hội nhập... nên họ trượt dài vào con đường suy thoái, biến chất.
Trực tiếp nhất là, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức ở nhiều lúc,
nhiều nơi bị coi nhẹ, thậm chí bị thả nổi; kỷ cương, kỷ luật trong Đảng chưa
nghiêm; chưa có một cơ chế kiểm tra, giám sát minh bạch, nghiêm ngặt và triệt
để đảng viên; công tác phát triển Đảng ở nhiều nơi bị “khúc xạ” đã mở lối cho
các phần tử cơ hội, thậm chí cả những kẻ phản động chui vào Đảng; các nguyên
tắc sinh hoạt đảng bị buông lỏng; chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát hữu hiệu
nhất đối với cán bộ, đảng viên. Thực tiễn chứng minh, tất cả những hoạt động
không có nguyên tắc đều dẫn tới sự đổ vỡ. Hơn nữa, trước sự tác động mặt trái
của cơ chế thị trường, trở thành miếng đất dung dưỡng tư tưởng thực dụng, cơ
hội giấu mặt, dối trên lừa dưới, lợi dụng chức quyền để mưu lợi cá nhân (và
phường hội), “đầu cơ chính trị”, kéo bè kết cánh, sa đọa đạo đức... đã làm cho
một bộ phận đảng viên sống “phân thân”, xa rời lý tưởng xã hội chủ nghĩa, sa
sút đạo đức cách mạng. Điều cần cảnh báo là, sự suy thoái về đạo đức, nhân cách chắc chắn dẫn đến sự
phai nhạt lý tưởng cách mạng, thậm chí phản bội mục tiêu phấn đấu và trách
nhiệm của người cộng sản.
Mặt khác,
về phía Nhà nước, không ít trường hợp đã buông lỏng pháp luật, có trường hợp
dung túng cho những việc làm sai trái của cán bộ, đảng viên, vô hình trung tiếp
tay cho sự lộng hành cá nhân ngay trong bộ máy nhà nước, biến một số cơ quan
nhà nước của nhân dân thành “của riêng”, thành “công cụ” của số ít người nào
đó. Thực tiễn từ các nước xã hội chủ nghĩa bị tan vỡ cho thấy, bất cứ sự đặc
quyền đặc lợi nào trong Đảng và Nhà nước cũng xâm phạm và chà đạp lên sự tự do,
dân chủ của nhân dân; và thất bại là tất yếu. Kinh nghiệm lịch sử chết người ở
đây là, ở đâu không có
sự thống nhất về lợi ích chung thì ở đó không có sự thống nhất về mục đích và
càng không thể có sự thống nhất về hành động. Đây là nguyên
nhân của tệ tha hóa
quyền lực, suy thoái quyền lực chính trị khi quyền lực nằm
trong tay các đảng viên bắt đầu thoái hóa về lối sống, đồi bại về phẩm hạnh đạo
đức... Và cố nhiên, ở những nơi đó vai trò lãnh đạo có tính nguyên tắc của Đảng
đối với Nhà nước hoặc bị “khúc xạ” hoặc bị vô hiệu hóa, hoặc vai trò của Nhà
nước bị biến thành “vật tượng trưng” phục vụ cho mưu toan biến quyền lực mà
nhân dân giao cho thành vật “sở hữu” của riêng họ, của riêng phe nhóm, thậm chí
gia tộc họ.
Từ suy
thoái dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước chuyển ngắn, thậm
chí rất ngắn, nguy hiểm tới mức khôn lường.
Tiếp tục
phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống gắn với phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ,
đảng viên
Việc cấp
bách phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là vấn đề mang tính quy luật xây
dựng Đảng, Nhà nước nói riêng, toàn bộ hệ thống chính trị nói chung; là nhu cầu
của sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc vừa là nguyện vọng
của nhân dân.
Nguyên
tắc chỉ đạo hiện nay là, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, mà then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách toàn
diện là phương sách tối ưu nhằm đề kháng, triệt tiêu cơ sở tồn tại của sự suy
thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; đồng thời, đấu tranh liên tục,
hiệu quả và triệt để với sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là
một bộ phận hợp thành toàn bộ công tác xây dựng Đảng, chính quyền Nhà nước và
làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
Phương
châm quán xuyến lúc này là: Chủ động và liên tục; dân chủ và
bình đẳng; phá bỏ mọi vùng cấm; cấp trên làm gương; công khai và minh bạch;
quyết liệt và nghiêm khắc; trên dưới phối hợp, trong ngoài đồng bộ, lấy sức
mạnh tổng thể làm căn bản.
Tinh thần
chỉ đạo hiện nay: Chọn đúng đột phá, chuẩn bị đầy đủ thực lực, giải
quyết triệt để; không “bắt cóc bỏ đĩa”; không “đánh trống bỏ dùi”, không né
tránh, đùn đẩy, nửa vời.
Trước mắt,
tập trung thực thi tối thiểu bốn nhiệm vụ sau:
Trước
hết, mỗi cán bộ, đảng viên gương mẫu tự giáo dục, tự chỉnh đốn mình. Đặc
biệt là những người giữ trọng trách và đứng đầu bộ máy đảng, nhà nước và các
thành viên hệ thống chính trị khác, không ngừng tự rèn luyện, tự khép mình vào
kỷ luật một cách toàn diện và triệt để, tự biết xấu hổ khi không chấp hành kỷ
luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, không hoàn thành nhiệm vụ, khi sống trái
đạo lý làm người. Vì, người xưa cũng nói: Con người không biết xấu hổ thì không
thành người được! Đó là liêm sỉ, và cũng là lẽ tối thiểu. Không như vậy, không
thể trở thành một cán bộ, đảng viên tốt và nhất định không lãnh đạo được ai;
và, thượng sách là nên từ nhiệm, từ chức.
Nhưng
trên thực tế, không ít người do cơ hội, chạy chọt, luồn lọt, nịnh bợ... đã
“kiếm” được một chức vụ nào đó và lấy đó làm cái để huyênh hoang, hợm hĩnh, dọa
nạt cấp dưới và nhân dân, gây nên bao nỗi oán thán, bất bình, làm tổn thương
mối quan hệ máu thịt giữa Đảng - “đứa con nòi của giai cấp lao động”. Thậm chí
biến nó thành “vật sở hữu” để kéo bè cánh, phe nhóm, mặc sức trục lợi, gây sự
phân liệt, rã rời... trong bộ máy đảng và nhà nước. Phải cắt bỏ ngay những “cục
bướu ác tính ấy”, những “liên minh ma quỷ”... trong cơ thể Đảng, Nhà nước và hệ
thống chính trị. V. I. Lê-nin từng cảnh báo: Không một kẻ thù nào, cho dù nó
nham hiểm và hung hãn nhất, có thể tiêu diệt được Đảng Cộng sản, ngoại trừ
chính những người cộng sản tự tiêu diệt chính họ.
Mỗi cán
bộ, đảng viên luôn thật xứng đáng với vị thế chính trị, nêu gương phát huy đạo
lý dân tộc: Nhân nghĩa, trung thành, dũng cảm, trí tuệ, liêm sỉ, thân dân!
Thứ hai,
Đảng đi tiên phong trong hành động thật kiên quyết, triệt để. Thực
tiễn xử lý những bệnh tật tiêu cực ở một số người và một số tổ chức mới đây và
giải quyết những vấn đề cấp bách đặt ra trong công tác xây dựng Đảng, và kinh
nghiệm càng chỉ rõ, hơn lúc nào hết, lúc này một bước tiến trong hành động có
giá trị hơn cả một tá lời hô hào sáo rỗng. Tiếp tục thực thi nghiêm các nguyên
tắc tổ chức xây dựng Đảng, trước hết thực hành dân chủ rộng rãi, đẩy mạnh tự
phê bình và phê bình trong Đảng gắn chặt với siết chặt kỷ luật tự giác của
Đảng. Xây dựng và phát triển bầu không khí đạo đức chính trị lành mạnh trong
Đảng, Nhà nước và xã hội.
Đội ngũ
cán bộ, trước hết là những
người đứng đầu phải thực sự là tấm gương về chính trị, về đạo đức và về hành
động, theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI và Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng. Sự thành bại của Đảng một phần cơ bản nằm ở phương
diện này. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hóa biến chất, nhất
là về đạo đức, những phần tử cơ hội, bất mãn, những người gây mất đoàn kết nội
bộ Đảng, cố ý bội nhọ, phủ nhận (dưới mọi hình thức) Cương lĩnh, Điều lệ Đảng,
vi phạm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng. Đặc biệt, thực hiện hiệu quả tự
phê bình và phê bình, trước hết nhằm uốn nắn những lệch lạc về tư tưởng chính
trị, nhất là những biểu hiện dao động dễ bị những phần tử xấu kích động, lôi
kéo; phê phán, kỷ luật nghiêm khắc những đảng viên coi thường nghị quyết của
Đảng, nói một đường làm một nẻo, coi thường nhân dân; những người vi phạm về
đạo đức, lối sống, tham nhũng, mất đoàn kết, cục bộ bản vị, cá nhân chủ
nghĩa...Sự suy thoái về đạo
đức có nguy cơ dẫn tới sự thoái hóa về chính trị. Hơn lúc nào
hết, chúng ta phải xây dựng Đảng ngang tầm về mặt đạo đức. Đó chính là sự kết
tinh phát triển trên bình diện chính trị. Vì Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”.
Xử lý kịp thời, nghiêm khắc những người giữ chức vụ trong Đảng vi phạm kỷ luật,
pháp luật, theo phương châm “quốc pháp vô thân” để làm răn đối với các cán bộ,
đảng viên.
Điều cần
tiếp tục làm là, tiếp tục đổi mới xây dựng và hoàn thiện cơ chế hoạt động trong Đảng và hệ
thống chính trị là gốc. Đổi mới các nguyên tắc tổ chức, nguyên tắc
hoạt động của Đảng, của Nhà nước; đổi mới cơ chế vận hành của mối quan hệ giữa
Đảng với Nhà nước và các thành viên của hệ thống chính trị theo mô hình vòng
tròn đồng tâm, mà Đảng là trung tâm, một cách tập trung dân chủ, minh bạch hóa,
theo vị thế, chức năng và nhiệm vụ của mỗi thành viên; trọng tâm là đổi mới
phương thức cầm quyền dân chủ, tổ chức bộ máy nhất thể hóa liên thông, gọn và
đội ngũ cán bộ tinh nhuệ. Đổi mới cơ chế phát triển quyền lực và giám sát quyền
lực một cách dân chủ và minh bạch đối với tất cả các tổ chức, các chức danh
trong hệ thống chính trị.
Ở
đây, trực tiếp là đổi
mới cơ chế giám sát, kiểm tra nghiêm ngặt định kỳ và bất
thường trong toàn hệ thống chính trị nhằm quản lý chặt chẽ từng cán bộ, mọi
đảng viên ở nơi công tác, ở khu vực cư trú và nơi đảng viên đi công tác, nhất
là đi công tác ngoài nước (thu nhập, tài khoản ngân hàng...). Chấn chỉnh, trao
thêm trọng trách và trong sạch hóa các cơ quan và đội ngũ làm công tác kiểm
tra, thanh tra. Không
thể lấy tiêu cực để chống tiêu cực. Đổi mới cơ chế kiểm tra, kiểm
soát: Không ai, không một tổ chức nào được nằm ngoài sự kiểm tra, giám sát, kỷ
luật và pháp luật. Kỷ
luật phải là tối thượng, pháp luật phải được thượng tôn; cả hai phải được toàn
dụng một cách công minh, bình đẳng, kịp thời và đúng đắn. Công
tác phát triển Đảng tiếp tục được chỉnh đốn, nhằm thu hút tinh hoa xã hội, thải
loại nghiêm khắc những phần tử thoái hóa, thanh lọc “cặn bã” trong bộ máy Đảng,
Nhà nước và hệ thống chính trị. Siết chặt công tác bảo vệ chính trị nội bộ của
Đảng. Không “đầu voi đuôi chuột”, không “mang thúng úp voi” hay “mùa vụ tùy
hứng”, “gặp chăng hay chớ”... làm nhờn kỷ luật, “giỡn mặt pháp luật”.
Cố nhiên,
chỉ có một thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng mới tạo nền tảng
tư tưởng chính trị vững chắc cho cán bộ, đảng viên kiên định lý tưởng xã hội
chủ nghĩa, tự giác phấn đấu vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội theo đường lối cách
mạng của Đảng. Do vậy, bằng mọi hình thức nâng cao trình độ lý luận tư tưởng,
tu dưỡng và tự tu dưỡng phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên nâng cao đạo
đức cách mạng, năng lực hành động độc lập và tự giác trên những cương vị mà họ
được giao phó theo Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, Về đẩy mạnh việc học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trước hết, mỗi cán
bộ, đảng viên phải tự mình nêu gương là một công dân gương mẫu, sống trong nhân
dân, thu phục uy tín của nhân dân... Mất niềm tin của nhân dân là có nguy cơ
tan rã và mất hết.
Thứ ba,
phát huy vai trò của Nhà nước và sức mạnh của các đoàn thể chính trị - xã hội. Đảng
ta là Đảng cầm quyền. Đảng viên chiếm một bộ phận lớn và quan trọng trong bộ
máy nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội. Sự suy thoái tư tưởng chính
trị, đạo đức của đội ngũ đảng viên là nguyên nhân căn bản và trực tiếp làm cho
Nhà nước suy thoái, các đoàn thể chính trị suy giảm sức mạnh.
Bởi vậy,
bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy, ban cán sự đảng (hoặc đảng đoàn) với
ban lãnh đạo cơ quan chức năng trong việc phát huy dân chủ và công khai các vấn
đề liên quan tới bộ máy, cán bộ và đảng viên, trong phạm vi cho phép và khả
năng có thể; trước mắt, trên từng phương diện, đối với từng loại cán bộ, từng
bước tổng kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc bổ nhiệm và hoạt động của cán bộ,
đảng viên gắn chặt với hoạt động của bộ máy. Vừa qua, chúng ta đối mặt không ít
hậu họa trên phương diện này. Những đảng viên là cán bộ lãnh đạo hư hỏng, thoái
hóa, biến chất thì một mặt, phải bị khai trừ ra khỏi Đảng; mặt khác, nhất định
phải bị sa thải ra khỏi bộ máy của Đảng, Nhà nước và đoàn thể chính trị - xã
hội, trừng trị nghiêm khắc theo kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà
nước. Đạo lý chưa đủ
thức tỉnh thì pháp lý phải được toàn dụng. Phối hợp thống nhất
và đồng bộ chống “diễn biến hòa bình” - giặc ngoại xâm với cô lập và tẩy trừ
giặc nội xâm hoặc đồng lõa với giặc nội xâm - “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ.
Các cơ
quan nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội có quyền chất vấn và khi cần thiết
bảo lưu ý kiến và đề nghị lên cấp trên về các cán bộ, đảng viên khi được Đảng
giới thiệu để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào các cơ quan này. Định kỳ bỏ phiếu tín
nhiệm các chức danh do nhân dân bầu cử. Các đảng viên vi phạm pháp luật phải bị
xử lý nặng hơn những viên chức không phải là đảng viên vi phạm pháp luật cùng
mức độ. Trừng trị thật nghiêm khắc những phần tử chống đối và kêu gọi lật đổ
chế độ, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, các tổ chức chống đối Đảng, Nhà
nước và chế độ. Các tổ chức đảng trong các cơ quan bộ máy nhà nước và các đoàn
thể chính trị - xã hội phải thực sự xứng đáng là người lãnh đạo thật trong sạch
và gương mẫu, ngang tầm nhiệm vụ tại các cơ quan đó.
Thứ tư,
bảo đảm sức mạnh của nhân dân và công luận. Kinh nghiệm vừa qua
càng cho thấy: Không có
sự giám sát công khai và minh bạch của nhân dân, sự ủng hộ và phản biện của
công luận trên nền tảng sự giúp đỡ của nhân dân sẽ không có dân chủ đầy đủ và
càng không có sức mạnh tổng thể trong công việc mệnh hệ này. Đặc
biệt, những năm gần đây, vai trò của công luận được thể hiện mạnh mẽ trong phát
hiện cái xấu, vun đắp cái tốt... được nhân dân ủng hộ... càng chứng tỏ điều đó.
Các cấp ủy, chính quyền các cấp, các đoàn thể chính trị dựa vào nhân dân, sống
trong nhân dân để thực thi trọng trách của mình. Đồng thời, tạo mọi điều kiện
thuận lợi nhất để nhân dân và báo chí tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và đoàn
thể mình, trước hết trong việc giám sát đảng viên, cán bộ ở mọi lúc, mọi nơi.
Xây dựng bầu không khí đạo đức xã hội, cộng đồng dân chủ, kỷ cương và nhân
văn... để kiểm soát, cô lập những thói xấu, đẩy lùi tiêu cực; bảo vệ và nâng
cao vai trò, sức mạnh của nhân dân và công luận theo pháp luật.
Đổi mới
cơ chế bảo vệ chặt chẽ những ý kiến của nhân dân phát hiện, tố cáo cán bộ, đảng
viên vi phạm pháp luật, đạo đức, lối sống trên tất cả các mặt khác, ở tất cả
các nơi liên quan tới cán bộ, đảng viên. Cổ vũ và bảo vệ đội ngũ báo chí tham
gia kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, nhằm xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ
chính quyền và đoàn thể trong hệ thống chính trị. Buông lơi điều này, công việc rất khó
thành công, nếu không nói là cầm chắc thất bại. Nâng cao ý
thức cảnh giác cách mạng của toàn dân trước âm mưu chống phá của những phần tử
suy thoái, của các thế lực phản động và thù địch từ bên ngoài.
Một lần
nữa, cần nhắc lại lời cảnh báo của V. I. Lê-nin, trong quá trình giải quyết
công việc cấp bách này: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những
sai lầm của bản thân chúng ta. Toàn bộ vấn đề là ở chữ “nếu” này. Nếu chúng ta
do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ”(7) ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét