Thứ Hai, 14 tháng 8, 2023

 Một số nhận thức về hệ giá trị văn hoá

1. Giá trị, hệ giá trị văn hoá do con người sáng tạo ra trong quá trình tương tác với tự nhiên, xã hội, sự sáng tạo này là liên tục và đến lượt mình - hệ giá trị văn hoá - lại trở thành yếu tố cơ sở, nền tảng, chuẩn mực chi phối phương châm, triết lý sống cũng như từng hành vi của con người. Như vậy, con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của hệ giá trị văn hoá.

Giá trị, hệ giá trị văn hoá được hình thành trên cơ sở học (văn hoá hoá), con người được dạy bằng nhiều con đường khác nhau và thông qua trải nghiệm trực tiếp của các cá nhân. Các cá nhân nhập tâm hoá hệ giá trị thông qua việc học/trải nghiệm này và các giá trị khi được nhập tâm trở thành tập tính (hành động, lựa chọn…) mà không phản tư tại sao lại hành động/lựa chọn như vậy, ví dụ như thắp hương ngày rằm, mùng một; mời nhau trước khi ăn cơm, dùng đũa khi ăn... 

Với cách hiểu như vậy, giá trị, hệ giá trị văn hoá có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hiện thực hoá mục tiêu “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; “Xây dựng hệ giá trị văn hoá, hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” mà Đảng ta đã đề ra. 

2. Hệ giá trị được xem là cốt lõi, là nền tảng tạo nên diện mạo một nền văn hoá, bản sắc văn hoá. Chính vì vậy, hiểu về các đặc điểm, tính chất của hệ giá trị văn hoá là cần thiết và giúp nhìn nhận rõ hơn về bản chất cùng những chiều tương tác của hệ giá trị trong các bối cảnh, môi trường cụ thể. 

Một là, hệ giá trị văn hoá luôn tồn tại là một hệ thống hay tạo nên hệ thống với nhiều yếu tố cấu thành. Bản thân hệ giá trị đã là sự kết nối, tổng hoà của nhiều giá trị, ví dụ hệ giá trị nhân ái bao gồm một chuỗi các yếu tố/giá trị cấu thành như đoàn kết, tương trợ, yêu thương, cảm thông, chia sẻ,… hay hệ giá trị vạn vật hữu linh là sự kết hợp của nhiều yếu tố/giá trị như niềm tin, đa thần, linh hồn, thiêng, hồn, vía, thờ cúng,… Trong hệ thống này, các yếu tố/giá trị không tồn tại riêng rẽ nhau mà luôn gắn kết với nhau, bổ trợ nhau tạo nên những mối quan hệ, những chiều tương tác trong một tổng thể hệ giá trị.

Tính hệ thống khiến cho hệ giá trị vừa có những liên kết nội tại song cũng vừa có những sự kết hợp với những hệ giá trị khác để cấu thành nên những tổng thể lớn hơn. Ví dụ, hệ giá trị nhân ái kết hợp với hệ giá trị anh hùng, dũng cảm, yêu nước tạo nên hệ giá trị ở quy mô lớn hơn, của cả một cộng đồng tộc người hay quốc gia...

Hai là, hệ giá trị mang tính tương đối khi chúng ta trải nghiệm một thực tế là mỗi một nền văn hoá đều có hệ giá trị riêng. Theo đó, mỗi cộng đồng, tộc người, mỗi nhóm xã hội đều có hệ giá trị riêng mà những hệ giá trị ấy được hình thành và duy trì, phát triển trong điều kiện cụ thể và đặc thù của chính cộng đồng tộc người hay nhóm xã hội đó. Vì vậy, khi nhìn nhận, đánh giá về bất cứ một giá trị, hệ giá trị nào cũng cần đặt nó trong bối cảnh sinh thái, lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của nó.  

Mỗi cá nhân có thể lựa chọn giá trị hay chính là lựa chọn phương châm sống, triết lý sống cho mình hoàn toàn khác với cá nhân khác hoặc khác với số đông. Do điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử cũng như điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội khác nhau nên quá trình sáng tạo văn hoá ở mỗi cộng đồng, quốc gia là khác nhau và hệ giá trị được hình thành và vận hành trong các cộng đồng, quốc gia đó cũng theo các quá trình và phương thức khác nhau. Kết quả là những giá trị hệ giá trị được biểu hiện ra không giống nhau. Ví dụ, giá trị làng Việt truyền thống Bắc bộ là khép kín kiểu “trong họ ngoài làng”, cố kết, co cụm trong khi làng Việt Nam bộ lại mở, phóng khoáng, năng động; giá trị canh tác nông nghiệp truyền thống Bắc bộ là thâm canh, trong khi ở Nam bộ là quảng canh. Giá trị ứng xử của người Việt vùng châu thổ Bắc Bộ là coi trọng mồ mả, ngày giỗ trong khi nhiều dân tộc thiểu số bỏ mồ mả, không làm giỗ... 

Chính vì hệ giá trị văn hoá mang tính tương đối, nên khó có thể có một hệ giá trị văn hoá nào có thể thống trị và trở thành hệ giá trị mang tính định hướng cho toàn bộ xã hội. Sự khác nhau, sự mở rộng, bổ sung, thay thế hay mâu thuẫn, trái ngược nhau trong sự tồn tại của hệ giá trị văn hoá đều là bình thường và hợp quy luật. 

Ba là, mỗi vùng sinh thái, vùng văn hoá, mỗi địa phương, tộc người, nhóm người sáng tạo và duy trì các hệ giá trị văn hoá khác nhau tạo nên tính đa dạng của hệ giá trị văn hoá ở Việt Nam. Sự đa dạng luôn thể hiện ở đủ các góc cạnh, phương diện của hệ giá trị văn hoá, cả trong điều kiện hình thành và trong quá trình sáng tạo, duy trì, phát triển, bổ sung, bồi đắp, làm mới các hệ giá trị, trong các mối quan hệ tương tác, tiếp nối, kế thừa của các hệ giá trị và trong cả sự giao lưu, tiếp biến văn hoá giữa các hệ giá trị qua các thời kỳ.

Hệ giá trị văn hoá được hình thành và bồi đắp từ nhiều nguồn khác nhau (từ truyền thống văn hoá, từ truyền thông đại chúng, từ những cá nhân trong vai trò là những biểu tượng,…) và bằng nhiều con đường khác nhau (qua môi trường gia đình, xã hội, qua giáo dục trong nhà trường và qua các trải nghiệm cá nhân...). Vì vậy, hệ giá trị văn hóa luôn đa dạngđa chiều và đa ý nghĩa.

Hệ giá trị luôn tồn tại trong sự đa dạng khi một nhóm, một cộng đồng, một tộc người, một quốc gia có thể tồn tại nhiều hệ giá trị khác nhau tạo ra nhiều chuẩn mực, triết lý sống khác nhau mà mỗi chuẩn mực, triết lý lại có cách vận hành riêng để tồn tại và chi phối cuộc sống con người...

Có thể khẳng định rằng, đa dạng giá trị, đa dạng nguồn hình thành giá trị, đa dạng cách vận hành giá trị, đa dạng ý nghĩa, đa dạng hình thức thể hiện giá trị là những đặc điểm nổi bật khi nhìn vào hệ giá trị văn hoá.

Bốn là, do hệ giá trị là tương đối và đa dạng nên không có một hệ giá trị nào tồn tại mãi mãi mà luôn có sự thay đổithay thếbổ sung hay sáng tạo mới; cũng không có sự đồng nhất trong hệ giá trị mà các hệ giá trị luôn tồn tại đa dạng, đan cài nhau trong các mối quan hệ tương tác, tương liên, với những sự kết nối chặt chẽ và đa chiều.

Vì hệ giá trị văn hoá luôn thay đổi theo sự thay đổi của lịch sử, của các điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị xã hội nên các hệ giá trị đã từng tồn tại trong truyền thống có thể không còn tồn tại trong hiện tại hoặc vẫn tồn tại nhưng đã có sự thay đổi về nội hàm hay sự mở rộng về trường nghĩa, sự thay thế về cách biểu đạt. Ví dụ, giá trị chuẩn mực của người phụ nữ truyền thống là “công, dung, ngôn, hạnh”, trong xã hội đương đại đã có sự thay đổi theo những giá trị chuẩn mực mới như: trí tuệ, năng động, sáng tạo, khéo léo, linh hoạt,… Giá trị chuẩn mực của mối quan hệ con cái với cha mẹ trong gia đình truyền thống là: quyền của cha mẹ, bổn phận của con cái, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”, trong xã hội đương đại chuẩn mực này đã thay đổi theo hướng quyền của con cái, bổn phận của cha mẹ, cha mẹ không áp đặt mà tôn trọng lựa chọn của con cái,… Giá trị yêu nước, theo thời gian và đặc thù lịch sử, đã luôn được tích hợp, thay đổi, bổ sung những trường nghĩa mới, khi đất nước bị xâm lược, yêu nước là tham gia chiến đấu đánh đuổi giặc ngoại xâm, thời kỳ tái thiết đất nước, yêu nước là dốc sức xây dựng đất nước, đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, thời kỳ đổi mới yêu nước là làm giàu cho đất nước và hiện nay giá trị yêu nước được bổ sung nhiều trường nghĩa mới như: “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” là yêu nước, hay trong cuộc chiến chống dịch bệnh COVID-19 “ở nhà là yêu nước”...

Hệ giá trị không bất biến mà luôn thay đổi, song sự thay đổi này không triệt để theo hướng là thay thế, xoá bỏ mà các hệ giá trị có thể song song tồn tại, vừa duy trì các giá trị truyền thống, vừa sáng tạo các giá trị mới, các giá trị mới có thể kế thừa, hội nhập, tích hợp các giá trị truyền thống. Chính vì thế, các hệ giá trị không đồng nhất mà mỗi hệ giá trị có “toạ độ” riêng trong đời sống xã hội, chuyển tải những trường nghĩa của cộng đồng, nhóm, tộc người, quốc gia sản sinh ra và nuôi dưỡng nó.   Hiện nay, nhiều hệ giá trị truyền thống đã thay đổi theo hướng thích ứng với bối cảnh mới, nhiều hệ giá trị mới đang được hình thành và vận hành trong xã hội như dân chủ, bình đẳng, hội nhập, khoan dung, cạnh tranh...

Năm là, vì hệ giá trị văn hoá rất đa dạng, mang tính tương đối, không bất biến, không đồng nhất nên hệ giá trị văn hoá tồn tại ở nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau, có hệ giá trị mang tính chung, tính phổ quát, có hệ giá trị mang tính riêng, tính đặc thù của từng nhóm, từng cộng đồng, từng tộc người, từng quốc gia, có hệ giá trị tồn tại trong một không gian rộng, một thời gian dài với số đông người lựa chọn nhưng cũng có hệ giá trị lại chỉ tồn tại trong một không gian hẹp, một thời gian ngắn với chỉ một nhóm người lựa chọn. 

Các hệ giá trị mang tính phổ quát thường được nhắc tới là chân, thiện, mỹ, là yêu nước, nhân ái, đoàn kết, khoan dung, sáng tạo... Những hệ giá trị này thường được đông đảo các nhóm, cộng đồng, tộc người, quốc gia chia sẻ, điều đó có nghĩa những hệ giá trị này có ở nhiều nền văn hoá song nội hàm, trường nghĩa cùng sự sắp đặt theo tầm quan trọng của các hệ giá trị này lại có sự khác nhau giữa các nhóm, cộng đồng, tộc người, quốc gia và đây chính là tính đặc thù của hệ giá trị văn hoá.

Tính phổ quát của hệ giá trị khiến cho văn hoá Việt Nam có thể chia sẻ, hội nhập, đối thoại dễ dàng với nền văn hoá thế giới, trong khi đó tính đặc thù của hệ giá trị lại khiến cho văn hoá Việt Nam “hội nhập mà không hoà tan”, giữ được hồn cốt dân tộc, làm giàu bản sắc văn hoá. Tính phổ quát và tính đặc thù của hệ giá trị không tạo ra mâu thuẫn mà cùng tồn tại như hai mặt của một vấn đề, một giá trị riêng lẻ cũng có thể vừa có tính phổ quát, vừa có tính đặc thù và chính thuộc tính này lại thúc đẩy mạnh mẽ hơn tính đa dạng và tương đối của hệ giá trị văn hoá. 

3. Hệ giá trị văn hoá hình thành trong tư duy của con người, thể hiện ra bằng triết lý, chuẩn mực, phương châm sống và có chức năng cơ bản là định hướng, đánh giá, điều chỉnh hành vi cũng như những quan hệ xã hội, theo đó hệ giá trị là một hệ thống phức tạp của những chiều tương tác, quan hệ, tác động, ảnh hưởng, du nhập, giao lưu...

Trong bối cảnh xã hội đương đại với sự gia tăng của toàn cầu hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, hệ giá trị văn hoá ở Việt Nam ngày càng trở nên phức tạp với sự cùng tồn tại của hệ giá trị truyền thống, hệ giá trị mới, hệ giá trị phổ quát, hệ giá trị đặc thù, hệ giá trị cốt lõi, hệ giá trị phái sinh... Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, xung đột giá trị, thậm chí khủng hoảng giá trị, “sốc” giá trị cũng đã xảy ra càng làm gia tăng thêm tính phức tạp nhưng cũng làm lộ rõ sự cần thiết nhìn nhận lại việc xây dựng hệ giá trị văn hoá hiện nay. 

Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII với Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (1998) đã ghi dấu mốc quan trọng khi đề cập đến giá trị văn hoá, khẳng định sự cần thiết phải “sáng tạo nên những giá trị văn hoá mới”. Từ đây, vấn đề giá trị, hệ giá trị văn hoá luôn được đề cập trong các văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng - từ Đại hội IX đến Đại hội XIII.

Qua văn kiện của các kỳ Đại hội và Cương lĩnh xây dựng đất nước qua các thời kỳ, Đảng ta đã từng bước định hình rõ nhiệm vụ sáng tạo, hoàn thiện, đúc kết, nghiên cứu, triển khai xây dựng hệ giá trị văn hoá. Theo đó, hệ giá trị văn hoá mang tính khái quát được đề cập là: Dân tộc, Nhân văn, Dân chủ, Pháp quyền và Khoa học và 7 đặc tính cơ bản được xác định là những chuẩn mực giá trị của con người Việt Nam: Yêu nước, Nhân ái, Nghĩa tình, Trung thực, Đoàn kết, Cần cù, Sáng tạo.

Hệ giá trị văn hoá là một phương diện quan trọng của một nền văn hoá và thể hiện rõ nhất bản sắc văn hoá. Hệ giá trị văn hoá đã và đang được thực hành đa dạng, sống động trong đời sống xã hội, việc gọi tên, đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hoá là vô cùng quan trọng, giúp cho chúng ta có những nhìn nhận bao quát hơn, đầy đủ hơn và phát huy được hiệu quả hơn chức năng định hướng, đánh giá, điều chỉnh của hệ giá trị văn hoá. Hơn nữa, việc xây dựng hệ giá trị văn hoá còn thể hiện mong muốn, khát vọng của chúng ta về những hệ giá trị tốt đẹp sẽ được thực hành phổ biến tạo nên sự phát triển phồn vinh và bền vững cho xã hội.

Từ góc độ nghiên cứu về văn hoá và con người Việt Nam, đã có nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam. Các giá trị, hệ giá trị được các nhà nghiên cứu xem là những giá trị, hệ giá trị truyền thống, đã có sẵn trong văn hoá, con người Việt Nam mà họ chỉ tổng kết lại, chỉ rõ ra và phân tích những biểu hiện của chúng. 

Trong bối cảnh hiện nay, khi Đảng ta nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra những hệ giá trị cần xây dựng để phù hợp với bối cảnh xã hội đương đại. Chẳng hạn như, nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm nhấn mạnh hệ giá trị định hướng cốt lõi hiện nay gồm: Dân chủ và Pháp quyền; Nhân ái và Yêu nước; Trung thực và Bản lĩnh; Trách nhiệm và Hợp tác. Trong công trình xuất bản gần đây, tác giả Nguyễn Ngọc Thiện và Từ Thị Loan đề xuất hai phương án xác định hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam, phương án thứ nhất gồm 5 giá trị (Yêu nước, Trách nhiệm, Kỷ luật, Sáng tạo, Trung thực); phương án thứ hai gồm 7 giá trị (Yêu nước, Trách nhiệm, Kỷ luật, Sáng tạo, Trung thực, Đoàn kết, Nhân ái)...

Có thể nhận thấy, cả tên gọi các hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam được xem là đã có sẵn và các hệ giá trị được xác định là cần xây dựng đều là các mỹ từ, nghe rất hay, rất quen thuộc, tạo cảm giác như chúng ta đã có hết rồi song thực tế lại không hẳn như vậy. Dường như những khái quát này vẫn chưa ghi nhận/phản ánh được những hệ giá trị văn hoá đa dạng mà các nhóm địa phương, tộc người trên cả nước đang thực hành trong thực tế cuộc sống thường ngày của họ. Điều này khiến cho các hệ giá trị văn hoá được xác định vẫn chưa thực sự gắn với thực tiễn, chưa đi vào cuộc sống mà chủ yếu tồn tại trên sách vở, trong các văn bản chính sách, trên các diễn đàn và các diễn ngôn truyền thông, tuyên truyền.

Hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực giá trị con người Việt Nam mà Đảng ta xác định chính là xác định việc xây dựng để có được những hệ giá trị đó, là khát vọng, là mục tiêu muốn đạt được mà không phải là những hệ giá trị có sẵn hay đang được thực hành phổ biến trong cả xã hội.

Nếu hiểu rõ hệ giá trị văn hoá mang tính hệ thống với nhiều yếu tố cấu thành và các yếu tố cấu thành này luôn gắn kết với nhau theo những trật tự nhất định và những tương tác đa chiều thì chúng ta sẽ hiểu không thể “nhặt” riêng một hệ giá trị nào ra khỏi tổng thể để đưa nó lên thành hệ giá trị phổ quát hay cốt lõi mà bỏ qua các giá trị có tính tương liên với nó. Ví dụ, muốn xây dựng hệ giá trị nhân ái, hài hoà với tự nhiên nhưng lại muốn xoá bỏ cúng rừng, chống mê tín dị đoan, bê tông hoá đồng loạt hệ thống tưới tiêu, xây dựng các công trình chặn dòng chảy của các con sông hoặc xả thải thẳng ra sông...

Nếu hiểu rõ hệ giá trị văn hoá mang tính tương đối, tính đa dạng thì việc xây dựng hệ giá trị văn hoá sẽ luôn phải tôn trọng tối đa bối cảnh đặc thù và sự lựa chọn giá trị của các chủ thể văn hoá ở các nền văn hoá khác nhau và không có hệ giá trị nào được xem là thống trị, lấn át hoàn toàn các hệ giá trị khác. 

Nếu xem hệ giá trị văn hoá là không bất biếnkhông đồng nhất thì chúng ta xác định được việc xây dựng hệ giá trị cho một giai đoạn lịch sử nhất định và các hệ giá trị chúng ta đang xây dựng không phủ nhận hay xoá bỏ các hệ giá trị đã và đang có. Ngay cả khi hệ giá trị chúng ta đang xây dựng đã định hình và duy trì trong đời sống đương đại thì cũng không nên tuyệt đối hoá hệ giá trị ấy, cũng không áp đặt một mô hình hệ giá trị ấy cho tất cả và luôn cần tôn trọng sự đa dạng các hình thức và phương thức thực hành hệ giá trị ấy của các nhóm, cộng đồng, tộc người. 

Nếu quan tâm đúng mức hơn đến tính thực tiễn của hệ giá trị văn hoá thì chúng ta sẽ khắc phục được sự chung chung, hô hào, hình thức trong xây dựng hệ giá trị văn hoá. Tính thực tiễn ở đây là hệ giá trị văn hoá phải được xây dựng từ thực tiễn và rồi phải được thực hành sâu rộng trong thực tiễn, trở thành lối sống, thói quen, tập tính hàng ngày của con người. Chỉ như vậy, việc xây dựng hệ giá trị văn hoá mới được xem là đạt hiệu quả.

Báo cáo chính trị tại Ðại hội XIII của Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”.

Theo PGS. TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHÂM

1 nhận xét: