Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển
sáng tạo lý luận của V.I.Lê-nin về công tác xây dựng Đảng nói chung và về công
tác kiểm tra, kiểm soát, kỷ luật đảng nói riêng. Lý luận về kiểm tra, kỷ luật
đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật của Đảng, được Đảng ta vận dụng có hiệu quả trong suốt quá
trình cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo vấn
đề kiểm tra, kỷ luật trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Người chỉ
rõ: “Khi có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó
là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu
ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”[1]. Trong quá trình
cách mạng, Đảng động viên toàn bộ lực lượng, thông qua tổ chức, thực hiện đường
lối, chủ trương mà Đảng đã đề ra.
Trong công tác kiểm tra thì chủ yếu là kiểm
tra cán bộ thực hiện Điều lệ Đảng và nghị quyết của Đảng. Hồ Chí Minh cho rằng:
“Mục đích lựa chọn cán bộ là dùng nhân tài cần phải hợp lý, chớ “dùng thợ mộc
làm nghề thợ rèn”, và cho họ hiểu rõ mọi mặt các công việc họ phải phụ trách.
Mà muốn biết sự động viên và thực hành ấy đã đến mức nào, thì phải có kiểm
tra”[2].
Hồ Chí Minh cho rằng, nếu tổ chức việc kiểm
tra cho chu đáo thì cũng như chúng ta đã có ngọn đèn pha, bao nhiêu tình hình,
bao nhiêu ưu điểm, khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ. Có thể
nói rằng, chín phần mười khuyết điểm trong công việc chúng ta là vì thiếu sự
kiểm tra. Nếu tổ chức sự kiểm tra được chu đáo thì công việc của chúng ta nhất
định tiến bộ gấp mười, gấp trăm.
Kiểm tra bao giờ cũng đi liền với kỷ luật
trong Đảng. Hồ Chí Minh coi: “Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật
tự giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ, đảng viên”[3]. Hồ Chí Minh
luôn khẳng định: Kỷ luật của Đảng là “kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự
giác”[4]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên càng có công thì
càng phải khiêm tốn, không được “tự đặt mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình
đứng ngoài kỷ luật”[5]. Người yêu cầu đảng viên chẳng những phải giữ gìn kỷ
luật của Đảng mà còn “phải giữ gìn kỷ luật của chính quyền, của cơ quan, đoàn
thể cách mạng, của nhân dân”; họ “tưởng là đảng viên thì muốn làm trời làm đất
thì làm”[6]. Các đảng viên, cán bộ đó “không biết kỷ luật của chính quyền, của
đoàn thể, nhân dân và Đảng cũng là một”[7].
Theo Hồ Chí Minh, đối với mọi đảng viên cộng
sản, khi nào và ở đâu cũng phải chịu sự phân công, quản lý của tổ chức đảng,
phải hành động theo phạm vi kỷ luật của tổ chức, phải báo cáo, phải chấp hành
nghị quyết, chỉ thị một cách nghiêm túc, đúng đắn, sáng tạo.
Hồ Chí Minh yêu cầu những đảng viên giữ vị trí
càng cao, trách nhiệm càng lớn, càng phải gương mẫu và nếu mắc sai phạm càng
phải chịu kỷ luật nghiêm khắc, không được châm chước, bao che cho nhau. Trong
bất kỳ trường hợp nào, Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi mọi đảng viên đều bình đẳng
trước kỷ luật của Đảng và bình đẳng về mặt công dân trước pháp luật. Củng cố và
tăng cường kỷ luật đảng là nhiệm vụ thường xuyên của mọi đảng viên và mọi tổ chức
đảng. Tăng cường kỷ luật đảng không phải là để kỷ luật cho nhiều đảng viên, mà
chủ yếu là để nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức, tinh thần nghiêm
chỉnh chấp hành chỉ thị, nghị quyết cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh đã để lại bản Di
chúc lịch sử và dành những lời đầu tiên cho Đảng: “Trước hết nói về Đảng...
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình
và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất
của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Theo Người, tự phê bình
và phê bình là phản ánh trung thực tinh thần dân chủ và sức chiến đấu của Đảng.
Bởi vì: “...một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một
đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có
khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để
sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chân chính”[8].
Hồ Chí Minh yêu cầu các cấp lãnh đạo phải biết
nghe, dám nghe và khuyến khích được nghe các ý kiến khác nhau, kể cả ý kiến
khác với suy nghĩ lâu nay của mình. Người nhắc lãnh đạo các cấp phải: “Khiến
cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến... Nếu cán bộ không nói năng, không
đề ra ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng
rất xấu. Vì không phải họ không có gì để nói, nhưng vì họ không dám nói, họ sợ.
Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên
những cái máy, trong lòng uất ức không dám nói ra, do uất ức mà hoá ra oán
ghét, chán nản”[9].
Hồ Chí Minh khẳng định mọi đảng viên có quyền
trình bày ý kiến riêng của mình, đề đạt kiến nghị, tham gia giải quyết vấn đề.
Song khi đã có nghị quyết của tập thể thì phải làm theo nguyên tắc thiểu số
phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức, nói và làm theo nghị quyết của
Đảng. Đó là quyền tự do phục tùng chân lý.
Hồ Chí Minh cho rằng, thực tiễn cách mạng luôn
vận động và phát triển. Đảng ở trong xã hội và cùng xã hội phát triển. Tuy
nhiên, mỗi khi gặp tình hình mới, công tác mới... tư tưởng của một số cán bộ,
đảng viên không khỏi bỡ ngỡ, lệch lạc, hoặc “tả”, hoặc “hữu’, đó là điều bình
thường, cho nên thống nhất ý chí, thống nhất kỷ luật, tập trung lãnh đạo là
việc cực kỳ cần thiết và cực kỳ quan trọng. Người thường chỉ dạy: “Nhiệm vụ của
Đảng ta là một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ngoài lợi ích
của Tổ quốc và nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Để làm tròn nhiệm vụ
nhân dân giao phó cho Đảng, toàn thể cán bộ, đảng viên phải tuyệt đối tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Trung ương, phải tuyệt đối chấp hành nghiêm túc mọi chính
sách và nghị quyết của Đảng”[10].
Suốt chặng đường cách mạng của Đảng, việc vận
dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng thể
hiện chủ yếu trên ba mặt sau:
Một là, trong Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định của Đảng;
Hai là, trong hoạt động thực tiễn của Đảng nói
chung và của ủy ban kiểm tra, đội ngũ cán bộ kiểm tra nói riêng;
Ba là, trong việc tổng kết, đánh giá công tác
xây dựng Đảng, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng hằng năm và các nhiệm
kỳ.
Những năm qua, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng
Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng vẫn còn nhiều thiếu sót, hạn
chế, yếu kém, bất cập. Khảo sát, nghiên cứu cho thấy, một số cấp uỷ, tố chức
đảng, UBKT các cấp chưa nhận thức đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác này
nên chưa tổ chức thực hiện có hiệu quả trong hoạt động kiểm tra, giám sát, kỷ
luật đảng của cấp mình. Có nơi, có lúc nhận thức được thì việc vận dụng còn máy
móc, giáo điều, chủ quan, duy ý chí, dẫn đến có hành động nóng vội, giản đơn,
chạy theo thành tích.
Một số cấp uỷ và người đứng đầu cấp uỷ học tập
và làm theo quan điểm: “Người lãnh đạo phải tự mình làm việc kiểm tra, mới đủ
kinh nghiệm và oai tín”[11] của Hồ Chí Minh còn yếu, dẫn đến nhận thức về công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng chưa đầy đủ nên chưa quan tâm đúng
mức, đúng tầm đến công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, thậm chí còn cản
trở việc kiểm tra hoặc không chịu trách nhiệm khi kiểm tra. Bên cạnh đó, việc
xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra chưa đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh mới, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế
sâu rộng hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, việc nhận thức, quán
triệt, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kiểm soát, kỷ luật
đảng có thể rút ra ba kinh nghiệm quý báu là:
Thứ nhất, phải có trình độ nhận thức lý luận
và năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn;
Thứ hai, phải có phương pháp đúng đắn, sáng
tạo khi làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh;
Thứ ba, phải đề cao trách nhiệm cá nhân và tổ
chức, nhất là trách nhiệm của cấp uỷ và người đứng đầu. Có bản lĩnh và dám chịu
trách nhiệm. Có ý thức chính trị và đạo đức trong công tác kiểm tra, giám sát,
kỷ luật đảng là ý thức xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân
dân.
Có thể khái quát về việc vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng hiện nay
là:
Xuất phát từ thực tế của Đảng, của đất nước và
quốc tế ngày nay để chủ động học tập, nhận thức lại, bổ sung, phát triển và
thực hành một cách sáng tạo “tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và
đối với bản thân mình” và những chân lý phổ biến của tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác kiểm tra, kỷ luật đảng nhằm tổng kết thực tiễn và tiếp tục xây dựng lý
luận công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong bối cảnh mới.
Theo đó, có thể tập trung vào những nội dung
chủ yếu sau:
Một là, các cấp uỷ, tổ chức đảng và UBKT các
cấp cần nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về
kiểm tra, kỷ luật đảng nhằm nắm vững và hiểu được những nội dung cốt lõi và
phương pháp luận cơ bản. Trong đó, cần chú ý:
- Nắm tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ
luật đảng là nắm lập trường, quan điểm, phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí
Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng.
- Hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ
luật đảng không phải là giáo điều, “kinh viện”, nhớ thật nhiều sách, thuộc
nhiều câu của Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng để trích dẫn “loè thiên
hạ”, mà dùng lập trường, quan điểm, phương pháp Hồ Chí Minh để giải quyết những
vấn đề của thực tiễn đang đặt ra đối với công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật
đảng trong bối cảnh mới hiện nay. Lập trường của Hồ Chí Minh là lập trường cách
mạng triệt để, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Quan điểm của
Hồ Chí Minh là quan điểm khoa học, xuất phát từ thực tiễn, phát hiện quy luật
và làm theo quy luật. Phương pháp của Hồ Chí Minh là phương pháp biện
chứng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác -
Lênin là hệ thống những tư tưởng khoa học, cách mạng làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, trong đó có công tác kiểm tra, giám sát
và kỷ luật của Đảng. Đó không phải là những công thức, khuôn mẫu bất di, bất
dịch, giáo điều, trong quá trình nghiên cứu, học tập, vận dụng, phát triển cần
đặc biệt quan tâm, chú ý làm rõ một số vấn đề sau:
a) Những luận điểm nào của Hồ Chí Minh về kiểm
tra, kỷ luật đảng trước kia đã đúng, bây giờ vẫn đúng và về lâu dài sau này vẫn
đúng.
b) Những luận điểm nào của Hồ Chí Minh về kiểm
tra, kỷ luật đảng trước kia đúng, nhưng điều kiện thực tiễn hiện nay đã thay
đổi, không còn phù hợp, cần bổ sung, phát triển hoặc thay đổi.
c) Những luận điểm nào của Hồ Chí Minh về kiểm
tra, kỷ luật đảng mà ngay lúc sinh thời, Hồ Chí Minh đã nhận thấy không thuyết
phục, không có tính khả thi, hoặc đã thừa nhận là sai và đã sửa đổi nhưng những
người nghiên cứu, giảng dạy, tuyên truyền, học tập, cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo
thực tiễn vẫn chưa biết đến, biết hết.
d) Những luận điểm nào của Hồ Chí Minh về kiểm
tra, kỷ luật đảng mà những người nghiên cứu, giảng dạy, tuyên truyền, học tập,
cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn đã hiểu không đầy đủ, hoặc hiểu sai, hoặc
hiểu theo cách hiểu không đúng.
Đó thực sự là những vấn đề lớn, không thể nóng
vội làm ngay, cần dày công, kiên trì, quyết tâm nghiên cứu mới dần dần sáng tỏ
được; đồng thời phải từ thực tiễn công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng
qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước mới có thể đi đến những kết
luận đúng đắn được.
Hai là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp
học tập và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng tăng tính
cập nhật, tính thiết thực, tính hấp dẫn, tính chiến đấu, tính giáo dục, tính
dẫn đường của lý luận, không bằng lòng với những kết luận có sẵn, không lặp lại
đi, lặp lại những câu chữ, những mệnh đề của tư tưởng Hồ Chí Minh khi chưa hiểu
thấu đáo quan điểm của Người, chống quy kết, chụp mũ, giáo điều, xét lại.
Ba là, các ban của cấp uỷ, UBKT các cấp phải
nêu cao vai trò tham mưu, giúp cấp uỷ trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức vận dụng
đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng vào hoạt động kiểm tra,
giám sát, kỷ luật đảng của cấp mình.
Bốn là, chủ thể và đối tượng kiểm tra, giám
sát, kỷ luật đảng cần quán triệt sâu sắc, vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí
Minh về kiểm tra, kỷ luật đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Năm là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các
quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước phục vụ công tác kiểm tra, giám sát,
kỷ luật đảng.
Sáu là, xây dựng tổ chức bộ máy kiểm tra và
đội ngũ cán bộ kiểm tra theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta nhằm
bảo đảm và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
của Đảng trong bối cảnh mới hiện nay.
---------------------------
Tài liệu tham khảo
[1], [2]: Hồ Chí Minh: Về Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 2, tr.53.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H.2005, tập 10, tr.311.
[4] Sđd, tập 5, tr.553.
[5] Sđd, tập 10, tr.311.
[6] Sđd, tập 7, tr.31.
[7] Sđd, tập 7, tr.31.
[8] Sđd, tập 5, tr.261.
[9] Sđd, tập 5, tr.280.
[10] Sđd, tập 7, tr.335.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tập 5, tr.521.
kiểm tra, giám sát là việc rất quan trọng
Trả lờiXóa