Hơn
ai hết và trước hết, Hồ Chí Minh chính là người cộng sản chân chính. Chính
Người cũng đã góp phần bổ sung, phát triển, làm phong phú hơn quan điểm về dân
tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin bằng những nội hàm mới. Do đó, cùng với chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tảng tư tưởng của Đảng ta.
Trên
hành trình tìm đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã kế thừa triệt để tinh
thần biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là vận dụng sáng tạo, bổ sung và
làm phong phú thêm học thuyết Mác - Lênin “bằng dân tộc học phương Đông”. Từ
trong bản chất của sự phát triển, tất cả các học thuyết chính trị nói chung mà
học thuyết Mác - Lênin nói riêng đều rất cần đến sự bổ sung, phát triển cho phù
hợp với thực tiễn ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Chính bản thân Hồ Chí Minh
là người đã chứng kiến sự vận động không ngừng của cách mạng thế giới những năm
đầu thế kỷ XX nên Người đã bổ sung vấn đề dân tộc thuộc địa - điều mà V.I.Lênin,
đặc biệt là C.Mác và Ph.Ăngghen chưa thể hoặc chưa có điều kiện đề cập một cách
sâu sắc.
Khi
nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh nhận thấy: “Mác đã xây dựng học thuyết
của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử
châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Và “Dù sao thì
cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm
vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”, “xem xét lại chủ
nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”.
Việc bổ sung vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông -
nơi mà có nhiều nước bị lệ thuộc và trở thành thuộc địa của các nước tư bản
phương Tây đã làm cho vấn đề dân tộc trở nên phong phú hơn, đầy đủ hơn, toàn
diện hơn. Đó là biểu hiện rõ ràng của tinh thần dân tộc vô sản, đấu tranh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và lệ thuộc.
Tháng
7/1920, sau gần 10 năm bôn ba tìm kiếm con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái
Quốc đã bắt gặp bản “Sơ thảo Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của
V.I.Lênin. Những tư tưởng về dân tộc, thuộc địa của V.I.Lênin như một ngọn đuốc
soi đường cho Nguyễn Ái Quốc trên hành trình tìm kiếm con đường giải phóng dân
tộc Việt Nam. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và hướng
sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Điều đó giúp cho
Nguyễn Ái Quốc ngày càng mạnh dạn nói lên tiếng nói của mình tại các diễn đàn
quan trọng để lên tiếng ủng hộ phong trào cách mạng ở các dân tộc thuộc địa.
Khi
vận dụng nội dung Luận cương của V.I.Lênin vào thực tiễn cách mạng ở thuộc địa,
Nguyễn Ái Quốc nhận thấy: “Cuộc đấu tranh cách mạng của công nhân các nước tư
bản trực tiếp giúp cho các dân tộc bị áp bức tự giải phóng mình, vì cuộc đấu
tranh đó đánh thẳng vào trái tim của bọn áp bức;... Trong khi đó, cuộc đấu
tranh cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa lại trực tiếp giúp
đỡ giai cấp vô sản các nước tư bản trong cuộc đấu tranh chống các giai cấp
thống trị để tự giải phóng khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa tư bản. Sự nhất trí của
cuộc đấu tranh chống đế quốc bảo đảm thắng lợi cho các dân tộc thuộc địa và nửa
thuộc địa và cho giai cấp vô sản ở các nước tư bản”. Đó là cơ sở để cách mạng
vô sản ở các dân tộc thuộc địa có tính độc lập, chủ động không phụ thuộc vào
cách mạng vô sản ở chính quốc, nó có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô
sản ở chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc tiến lên. Đánh giá về
sự bổ sung, vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với quan điểm của V.I.Lênin
về vấn đề dân tộc, đồng chí Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Luận điểm của Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ,... Nó nằm trong dòng sáng tạo cách mạng
của những con người mà cống hiến lý luận và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho
thời đại”.
Ngoài
ra, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy rằng, cách mạng vô sản và độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển của dân tộc Việt Nam. Bởi lẽ,
con đường này chẳng những giải phóng hoàn toàn dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ
của chủ nghĩa đế quốc, mà còn giải phóng nhân dân Việt Nam khỏi mọi sự áp bức
bóc lột, đi đến ấm no, hạnh phúc thực sự. Sự lựa chọn này vừa đáp ứng yêu cầu
phát triển của dân tộc Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của
nhân loại và thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội đã được mở ra, bắt đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Với quan
điểm độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, “Hồ Chí Minh là người tiên phong
trong việc củng cố và bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin”./.
HAIVAN
bài viết rất thực tế
Trả lờiXóa