Cách đây 75
năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, cả dân tộc Việt Nam triệu người
như một, nhất tề vùng lên tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi,
đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến giành chính quyền về tay nhân
dân. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ) – Nhà nước công nông đầu
tiên ở Đông-Nam-Á.
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn
cuối. Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường
châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại
Béc-lin. Ngày 09/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết
thúc ở châu Âu. Ngày 08/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân
đội Nhật. Ngày 14/8/1945, phát xít
Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo
thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh
và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân
Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc
Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần
tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi
chủ, chống lại cách mạng.
Ở trong
nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao.
Ngày 09/3/1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm
đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào
cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền,
cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3/1945, Trung ương Đảng ra
Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Tháng
4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định
nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải
phóng quân. Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân
tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt
Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng
4/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội
dung và hình thức. Đầu tháng 5/1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn
Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân.
Ngày 4/61945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của
Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8/1945, Hội
nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ
hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi
nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng
minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó
là: tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13/81945, Ủy ban Khởi nghĩa ra
Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16/8/1945, Đại hội
Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông
qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc
giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ
tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa,
trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng
bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Dưới sự
lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy,
tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18/8, cuộc
tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ
phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà
Tĩnh, Hội An, Quảng Nam… Ngày 19/8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà
Nội. Ngày 23/8, khởi nghĩa thắng
lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị,
Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu… Ngày 25/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn – Gia
Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre… Ở
Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm
nổi dậy giành chính quyền. Chỉ trong
vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn
toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân. Ngày
2/91945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịnh sử, trước cuộc mít tinh của gần
một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh
trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Tuyên ngôn Độc lập là văn
kiện lịch sử có ý nghĩa vô cùng trọng đại đối với vận mệnh của dân tộc. Nó tiếp
nối truyền thống anh hùng bất khuất của cha ông thuở trước. Chí khí hào hùng
của nhân dân ta trong thơ Lý Thường Kiệt “Nam quốc sơn hà Nam đế cư..”, trong
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi vẫn thắm đượm trong từng lời, từng chữ của
Tuyên ngôn. Tuyên ngôn Độc lập là bản
hùng ca viết tiếp những trang sử huy hoàng của ngàn năm về trước, đã đánh dấu
thắng lợi của một thế kỷ ngoan cường chống Thực dân và Phong kiến và mở ra một
kỷ nguyên mới trên đất nước ta. Tuyên ngôn Độc lập chẳng những đã khai sinh một
nhà nước – nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, nhà nước độc lập đầu tiên trong hệ
thống thuộc địa thế giới, mà còn báo hiệu sự thành lập một chế độ xã hội mới –
chính quyền công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á.
Từ đây
với tư cách người chủ thực sự của đất nước, nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản đã kiên cường đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và chế độ
phong kiến. Ba mươi năm sau ngày “Tuyên ngôn Độc lập”, năm 1975, Đảng ta, quân
dân ta đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang: giải phóng hoàn toàn miền Nam,
kết thúc thắng lợi sự nghiệp cách mạng dân tộc – dân chủ, tiến hành thống nhất
nước nhà. Tổ quốc ta được độc lập,
nhân dân ta đời đời được tự do, tinh thần bất diệt của Tuyên ngôn Độc lập mãi
mãi khắc sâu vào trái tim và khối óc của mỗi người dân Việt Nam. Với ý nghĩa và
tầm vóc lớn lao đó, ngày 2 tháng 9 trở thành ngày hội lớn của dân tộc, ngày
Quốc khánh của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Suốt 75 năm qua, lời tuyên bố của chủ
tịch Hồ Chí Minh như vẫn còn vang vọng sang sảng, đầy kiêu hãnh và tự hào từ
quảng trường Ba Đình lịch sử. Tinh thần bất diệt của Cách mạng tháng Tám, chủ
nghĩa yêu nước nồng nàn và tư tưởng không có gì quý hơn độc lập tự do của
Người không ngừng được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta truyền lửa từ thế hệ
này sang thế hệ khác.
Trong
những năm qua, Đảng luôn đặt nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân lên hàng đầu, điều đó được khẳng định qua những
thành tựu to lớn của hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã
đạt được nhiều thành tựu rất đáng tự hào trong tất cả mọi lĩnh vực từ chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
không ngừng được củng cố và nâng cao.
Đời sống
của nhân dân được cải thiện từng ngày, cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội đã
được xây dựng một bước đáng kể, các phong trào đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm
nghèo được các tổ chức chính trị xã hội và các tầng lớp nhân dân đặc biệt quan
tâm và ủng hộ nhiệt tình đã phát huy hiệu quả. Song con đường cách mạng không
phải chỉ có hoa hồng, đoạn đường sắp tới còn nhiều chông gai, nhất là những khó
khăn thách thức của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập. Một lần nữa,
bài học về sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân lại được Đảng ta
đặt lên hàng đầu để toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ra sức thi đua thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Ðại hội XII của Ðảng, vì một xã hội dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ và văn minh./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét