Từ nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của việc khơi dậy sức mạnh dân tộc nhằm tạo nên động lực to lớn cho cách mạng Việt Nam, trong nhiều bài nói, bài viết, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã có những lời động viên, kêu gọi có sức lay động và có sức thuyết phục lớn lao đối với quốc dân, đồng bào trong các thời điểm có tính chất bước ngoặt của cách mạng Việt Nam.
Vì thế,
trên những chặng đường cách mạng, Người luôn khơi dậy và phát huy nguồn sức mạnh
của lòng yêu nước để lãnh đạo nhân dân ta từng bước giành thắng lợi trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trước
Cách mạng Tháng 8 năm 1945, mặc dù Đảng ta chưa giành được chính quyền, đất nước
vẫn dưới ách nô lệ của chế độ thực dân nửa phong kiến, nhưng để cổ vũ cho cao
trào cách mạng Việt Nam giai đoạn 1939 - 1945, ngày 6/6/1941, Người viết Kính
cáo đồng bào, trong đó kêu gọi: “Trong lúc này, quyền lợi dân tộc giải phóng
cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt
gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng. Hỡi đồng bào yêu quý! Việc cứu
quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần
trách nhiệm: Người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức,
người có tài năng góp tài năng. Riêng phần tôi, xin đem hết tâm lực đi cùng các
bạn, vì đồng bào mưu giành tự do, độc lập, dầu phải hy sinh tính mệnh cũng
không nề. Hỡi các chiến sĩ cách mạng! Giờ giải phóng đã đến. Hãy phất cao cờ độc
lập, lãnh đạo toàn dân đánh tan thù chung. Tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc
đương vang dội bên tai các đồng chí! Máu nóng của bậc anh hùng đương sục sôi
trong lòng các đồng chí! Chí phấn đấu của quốc dân đương chờ đợi sự lãnh đạo của
các đồng chí!”.
Hưởng ứng
lời kêu gọi của Người trong Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa, viết ngày 18/8/1945:
“Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc
đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, toàn dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã nhất tề đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng 8 thành công. Việc
thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mùa Thu năm 1945 đã tạo nên một bước
ngoặt lịch sử, làm thay đổi căn bản vận mệnh của dân tộc, mở ra kỷ nguyên độc lập,
tự do và chủ nghĩa xã hội.
Để cải tạo
xã hội cũ, giữ vững nền độc lập, chính quyền còn non trẻ và kiến tạo một chế độ
xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, ngay những tháng cuối năm 1945, Người viết
bài Nhân tài và kiến quốc đăng trên Báo Cứu quốc và kêu gọi: “Sau 80 năm bị bọn
Pháp thực dân giày vò, nước Việt Nam ta cái gì cũng kém cỏi, chỉ có lòng sốt sắng
của dân là rất cao. Nay muốn giữ vững nền độc lập thì chúng ta phải đem hết
lòng hăng hái đó vào con đường kiến quốc”.
Mặc dù đã
làm hết sức mình để tránh cuộc chiến đổ máu cho cả hai dân tộc Việt - Pháp,
nhưng khi kẻ thù quyết tâm cướp nước ta một lần nữa, chúng ta phải kiên quyết
chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến, thôi thúc toàn dân ta đứng lên cứu nước: “Chúng
ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ... Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng
cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. Đây
là đỉnh cao của lời hiệu triệu, có sức lay động lớn và sức thuyết phục mạnh mẽ,
đúng như Điếu văn tại Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 9/9/1969 do cố Tổng
Bí thư Lê Duẩn đọc đã khẳng định: “Đó là lời kêu gọi cứu nước khẩn thiết hiện
nay của Tổ quốc, là lời hịch của ông cha ta vang vọng tự ngàn xưa, là nghĩa vụ
thiêng liêng của chúng ta đối với muôn đời con cháu”.
Ngày
17/7/1966, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc bước vào giai đoạn
ác liệt nhất, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân đánh phá miền Bắc,
trên Đài Tiếng nói Việt Nam, lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vang lên: “Chiến tranh có thể kéo
dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành
phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không
có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất
nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.
Để bảo vệ
độc lập, tự do của dân tộc, đáp lại lời kêu gọi của Bác Hồ, nhân dân Việt Nam
đã chiến đấu kiên cường, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Tinh thần “quyết
tử cho Tổ quốc quyết sinh” và “không có gì quý hơn độc lập tự do” đã thực sự là
động lực tinh thần to lớn thôi thúc lớp lớp thế hệ người Việt Nam lên đường chiến
đấu chống kẻ thù xâm lược, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu” và đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.
Hiện nay,
khơi dậy và phát huy sức mạnh dân tộc theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
vấn đề vừa mang tính cấp bách trước mắt, vừa là chiến lược lâu dài của cách mạng
Việt Nam. Hạt nhân, nguồn gốc sâu xa và chủ yếu của sức mạnh dân tộc theo chỉ dẫn
của Người chính là tinh thần đại đoàn kết dân tộc dựa trên sự thống nhất về lợi
ích căn bản. Đất nước đang tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập ngày càng
sâu rộng trong bối cảnh toàn cầu hóa với nhiều thời cơ và vận hội lớn, nhưng
cũng đối mặt với những nguy cơ và thách thức không nhỏ. Trước mắt, Việt Nam phải
đối mặt với đại dịch Covid-19. Vì vậy, hơn bao giờ hết, khơi dậy và phát huy sức
mạnh dân tộc theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tất yếu.
Theo đó,
mỗi cá nhân, mỗi tập thể, cấp ủy, chính quyền và các ban, ngành chức năng cùng
cả hệ thống chính trị cần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân về sự cần thiết, ý nghĩa của việc khơi dậy và phát huy sức mạnh
dân tộc theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh để vận dụng cho phù hợp với tình
hình mới. Nhiệm vụ cấp bách trước mắt là tiếp tục hưởng ứng Lời kêu gọi toàn
dân chống đại dịch Covid-19 của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng:
“Toàn thể dân tộc Việt Nam hãy cùng chung sức, đồng lòng vượt qua mọi khó khăn,
thách thức để chiến thắng đại dịch Covid-19” và quyết tâm thực hiện “mục tiêu
kép” của Chính phủ - vừa bảo đảm sức khỏe, tính mạng người dân, vừa tìm mọi biện
pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, ổn định, giữ vững và phát triển
kinh tế với tinh thần “không để một ai bị bỏ lại phía sau”. Đây chính là biểu
hiện sinh động nhất của sức mạnh dân tộc, cũng chính là trái ngọt của việc phát
huy sức mạnh tinh thần yêu nước.
Và hơn
bao giờ hết, đối diện với khó khăn, thử thách từ thiên tai, địch họa và dịch bệnh,
người dân Việt Nam lại tìm thấy những chỉ dẫn quý báu của Bác Hồ về khơi dậy sức
mạnh dân tộc để chung sức, đồng lòng xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, phát
triển bền vững./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét