Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo chính trị, quân sự tiêu biểu của Đảng, dân tộc và Quân đội. Trải qua nhiều cương vị, trong những bước ngoặt của cách mạng, Đồng chí không chỉ tỏ rõ tài năng của một nhà hoạt động chính trị kiệt xuất, mà còn là nhà chỉ huy quân sự mưu lược, tài trí, có tư duy quân sự sắc sảo, sáng tạo, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Năm 1950, trước
yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được điều
vào Quân đội làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phó Bí thư Tổng Quân ủy. Kể từ
đây tài năng quân sự của Đồng chí được phát huy, đơm hoa, kết trái. Đồng chí đã
cùng với Tổng Quân ủy, Bộ Tổng chỉ huy tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về
chính trị; phát triển nghệ thuật quân sự, tạo nền tảng nâng cao sức mạnh chiến
đấu của bộ đội,… góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ của dân
tộc.
Đặc biệt, năm
1964, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước vào giai đoạn quyết liệt,
với cương vị Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Chính ủy các lực lượng vũ trang
nhân dân giải phóng miền Nam, Đồng chí đã luôn nghiên cứu nắm vững lý luận, bám
sát thực tiễn, đem hết sức lực, trí tuệ cống hiến cho Đảng, cho Tổ quốc và nhân
dân, nhất là những tư duy khoa học về đánh giá kẻ thù; xác định cách đánh Mỹ và
thắng Mỹ,… đã tạo dấu ấn sâu sắc cho cách mạng miền Nam, góp phần to lớn vào sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Nổi bật ở một số nội
dung chủ yếu sau:
Một là, xây
dựng “quả đấm chủ lực mạnh” làm nòng cốt đánh đòn quyết định, giành thắng lợi
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trước yêu cầu của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được Bộ Chính trị cử vào chiến
trường làm Chính ủy Miền.
Với kinh nghiệm
tích lũy được từ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và xây dựng phong trào cách
mạng, từ phân tích tình hình cách mạng miền Nam, nhất là giai đoạn cuối của
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965), Đồng chí cho rằng, nếu ta phát
triển chiến tranh du kích dù đến đỉnh cao, nhưng chỉ đánh nhỏ thì không thể
giành thắng lợi hoàn toàn được, trong khi đó “đối phương rất sợ khi thấy chủ
lực ta xuất hiện”. Vì thế, Đại tướng xác định phải có “quả đấm chủ lực mạnh”
mới có thể đánh những đòn quyết định giành thắng lợi.
Đại tướng viết:
“Bây giờ du kích cũng quan trọng, bộ đội địa phương cũng quan trọng. Nhưng quan
trọng hơn là phải có chủ lực mạnh đủ sức tiêu diệt từng tiểu đoàn, trung đoàn
chủ lực của địch”.
Vì vậy, trong
khi tiếp tục đẩy mạnh phương châm đấu tranh “hai chân”, “ba mũi”, “ba vùng”,
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh quan tâm xây dựng những “quả đấm chủ lực mạnh” của
Quân giải phóng miền Nam, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Với chủ trương
và quyết tâm đó, sau thắng lợi của các chiến dịch: Bình Giã (02-12-1964 –
07-3-1965), Ba Gia (28-5 – 20-7-1965), Đồng Xoài (10-5 – 22-7-1965), Sư đoàn 9
quân chủ lực Miền (B2) và Sư đoàn 3 (Quân khu 5) cùng nhiều đơn vị khác được
thành lập, tạo cơ sở để xây dựng, phát triển thành các quân đoàn chủ lực ở giai
đoạn quyết định của cuộc chiến tranh, góp phần “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và làm nòng cốt trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau này.
Như vậy, quan
điểm xây dựng “quả đấm chủ lực mạnh” trên chiến trường miền Nam trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh thể hiện tầm nhìn chiến
lược, sự sáng tạo trong tư duy quân sự, góp phần phát triển nghệ thuật tác
chiến, kết hợp chặt chẽ phương thức tiến hành chiến tranh nhân dân địa phương
với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực. Đây là đóng góp lớn của Đại tướng
Nguyễn Chí Thanh vào nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Hai là, đánh
giá đúng mạnh, yếu của địch, làm cơ sở phát huy tư tưởng chiến lược cách mạng
tiến công trong cuộc đụng đầu với quân Mỹ. Sau thất bại của chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” (1961-1965), Đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam
Việt Nam, kết hợp tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra
miền Bắc hòng bóp nghẹt cách mạng miền Nam và giành thắng lợi trong vòng 18
tháng.
Vấn đề đặt ra
lúc này là, ta có dám đánh Mỹ không và làm thế nào để đánh thắng Mỹ trong chiến
lược “Chiến tranh cục bộ”.
Trong khi đó,
không chỉ trong nước, mà một số nước xã hội chủ nghĩa cũng xuất hiện tâm lý sợ
Mỹ, bày tỏ lo ngại Việt Nam không thể thắng Mỹ, chiến tranh Việt Nam sẽ phát
triển thành chiến tranh thế giới, v.v. Phân tích tình hình, Đại tướng Nguyễn
Chí Thanh cho rằng: “Việc Mỹ ồ ạt đưa vào miền Nam gần 20 vạn quân viễn chinh
trong năm 1965 có nghĩa là Mỹ đã phải thú nhận là 50 vạn quân ngụy không còn có
thể đương đầu nổi với cuộc chiến tranh nhân dân, như thế cũng có nghĩa là chiến
tranh nhân dân ở miền Nam nước ta đã thắng “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ trong
một giai đoạn mà chúng lấy quân ngụy làm chỗ dựa chủ yếu”.
Về quân đội Mỹ,
trên cơ sở phân tích những điểm mạnh, điểm yếu và cả những mâu thuẫn chiến lược
của chúng, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã rút ra những kết luận rất quan trọng.
Đó là, Quân đội Mỹ vào miền Nam là ở trong thế hoàn toàn bị động về chiến lược;
Mỹ đông nhưng không mạnh (vì trước đó, báo chí phương Tây tuyên truyền bộ binh
Mỹ được xếp là mạnh nhất thế giới) và điểm yếu chí mạng của chúng là tinh thần
kém, tuy được trang bị vũ khí mạnh, có nhiều phương tiện,… nhưng sẽ khó phát
huy ở địa hình chiến trường miền Nam, như “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Hơn
thế nữa, sự chỉ huy của Mỹ đang vướng một loạt vấn đề không dễ giải quyết.
Đại tướng viết:
“Vừa qua quân Mỹ đã mở một số trận phản công với kế hoạch khá công phu, nhưng
thật ra không có một trận nào thắng lợi, chỉ có khó khăn và thất bại, thực tế
chứng tỏ không những về chính trị và chiến lược, mà cả về chiến thuật, Mỹ cũng
đang khủng hoảng”.
Từ những phân
tích, đánh giá trên, Đồng chí đã rút ra kết luận: Mỹ giàu nhưng không mạnh và
dân tộc ta có đủ sức lực, trí tuệ để đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược. Đây là kết
quả của tư duy khoa học, biện chứng của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh; tư duy đó
đã trả lời cho câu hỏi lớn, có dám đánh mỹ không và đánh Mỹ bằng cách nào? Đặc
biệt, nó đã khắc phục tư tưởng ngại Mỹ, sợ Mỹ, kịp thời động viên, khích lệ
tinh thần chiến đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong cuộc đụng đầu
lịch sử với kẻ thù.
Đồng thời, đó
còn là cơ sở quan trọng để Đảng ta xây dựng Nghị quyết Trung ương 11, 12, 13
(khóa III), xác định quyết tâm, đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thực
tế chứng minh, tư duy quân sự sáng tạo của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã thổi
một luồng gió mới vào phong trào cách mạng miền Nam; thúc đẩy quân và dân ta
anh dũng tiến lên, đánh thắng từng trận, từng chiến lược của Mỹ, buộc chúng
phải ký Hiệp định Pa-ri, rút quân về nước.
Ba là, luôn chủ
động đề xuất, chỉ đạo phương châm, cách đánh độc đáo, sáng tạo. Là người cán bộ
có phong cách lãnh đạo, chỉ huy sâu sát, cụ thể, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
luôn lấy thực tiễn chiến đấu của bộ đội và nhân dân làm cơ sở nghiên cứu, đề ra
phương châm, cách đánh phù hợp để chỉ đạo hoạt động tác chiến của quân và dân
trên chiến trường.
Trong kháng
chiến chống Pháp, mặc dù là cán bộ chủ trì công tác đảng, công tác chính trị
toàn quân, nhưng Đồng chí luôn tìm tòi, nghiên cứu và có nhiều chỉ dẫn cho cán
bộ, chiến sĩ về chiến thuật, cách đánh, lựa chọn mục tiêu hết sức độc đáo, sáng
tạo, như: “khi có tàu bay, quân nhảy dù tiến công vào trận địa của mình, phải
chú trọng quân địch dưới đất. Vì chỉ tàu bay trên trời, không giải quyết được sự
thắng lợi”; “Với tàu bay đề ra cho bộ đội biết là đã có bảo đảm.
Đội dự bị ở
đằng sau trận địa phải b.ắ.n lại phi cơ. Ở phía trước bộ đội phải tiến sát địch
để tránh b.o.m đ.ạ.n tàu bay địch…”, v.v. Đây là tư duy quân sự rất quan trọng,
mở đường cho phương pháp tác chiến hợp đồng binh chủng sau này.
Trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, từ thực tiễn những trận dám đánh Mỹ và thắng Mỹ
ở Núi Thành (Quảng Nam tháng 5-1965), Vạn Tường (Quảng Ngãi tháng 8-1965), tiếp
đến là các trận Bầu Bàng, Ia Đrăng,… Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã đề xuất
những tư tưởng mới: “Bắt Mỹ phải đánh theo cách đánh của ta”, “nắm thắt lưng Mỹ
mà đánh”, “tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”, v.v.
Những tư tưởng
đó, được quân và dân ta vận dụng sáng tạo, giành thắng lợi, hình thành những
“vành đai diệt Mỹ” trên khắp các chiến trường, thậm chí ở ngay cửa ngõ Sài Gòn
và các thành phố lớn, tạo cơ sở để quân và dân miền Nam giành thắng lợi lớn,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Có thể khẳng
định, những nội dung sáng tạo trong tư duy quân sự của Đại tướng Nguyễn Chí
Thanh thể hiện rõ phương pháp đánh giá, nhận định tình hình khoa học và biện
chứng, tư duy của nhà lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh xuất sắc, thấm nhuần và vận
dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm của Đảng về chiến tranh và quân đội; luôn gắn lý luận với thực
tiễn, bám sát thực tiễn để tổng kết, đúc rút thành lý luận.
Những tư tưởng
đó, đến nay vẫn còn nguyên giá trị, cần được vận dụng vào thực tiễn xây dựng,
huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của Quân đội nhân dân trong tình hình mới./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét