Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2020

Vai tro lich su CMT10

       Ngày nay, nhìn lại cuộc Cách mạng Tháng Mười trong tiến trình lịch sử thế giới nhân loại trong thế kỷ 20 cho thấy:
Tính tất yếu và giá trị bền vững của Cách mạng Tháng Mười đối với tiến trình lịch sử nhân loại như thế nào?
       Cách mạng Tháng Mười không phải là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên của nhân loại. Trước đó là sự kiện nổi dậy của giai cấp công nhân và thợ thủ công Paris (còn gọi là Công xã Paris, ngày 18-3-1871 ở Pháp), song Công xã không tồn tại được bao lâu. Đó là vì nhiều yếu tố cho một cuộc cách mạng vô sản chưa thật sự chín muồi. Tính tất yếu, sức sống của Cách mạng Tháng Mười được xác lập bởi những đặc trưng của thời đại đế quốc chủ nghĩa và học thuyết cách mạng của Mác-Lênin. Không phải ngẫu nhiên mà cuộc bao vây chính trị-kinh tế, cuộc tấn công quân sự của 14 nước đế quốc đã không thể đánh bại được Nhà nước Xô viết trong những ngày còn trứng nước (1917-1918).
Nhiều chính sách xã hội ưu việt của Nhà nước Xô viết đầu tiên (về xã hội như y tế, giáo dục, nhà ở, phúc lợi... nói chung) vẫn đang tồn tại ở nhiều quốc gia trong Liên bang Xô viết sau khi Liên Xô tan rã. Những chính sách này cũng đã tác động đến các nhà nước tư bản chủ nghĩa (TBCN), hình thành các phong trào đấu tranh cho dân chủ, hòa bình và phúc lợi xã hội. Đó là điều đã được cuộc sống ghi nhận.
       Có thể nói, trong lịch sử nhân loại chưa có cuộc cách mạng nào có tác động mạnh mẽ, rộng lớn và sâu xa như Cách mạng Tháng Mười. Cách mạng Tháng Mười đã lan tỏa nhanh chóng trên toàn thế giới. Cho dù ngày nay vẫn còn một số kẻ xuyên tạc, hạ thấp vai trò của Hồng quân Liên Xô trong chiến thắng của Đồng minh với chủ nghĩa phát-xít, nhưng họ không thể phủ nhận được ảnh hưởng rộng lớn của cuộc Cách mạng Tháng Mười và vai trò của Nhà nước Xô viết trong lịch sử nhân loại. Cách mạng Tháng Mười “kích hoạt” phong trào giải phóng dân tộc, hình thành nhiều chế độ xã hội mới tiến bộ hơn chế độ TBCN, trong đó có chế độ XHCN. Như vậy, điều mà Francis Fukuyama cho rằng CNTB là “sự tận cùng của lịch sử…” đã không được thực tế xác nhận. Trái lại, như chúng ta thấy ở nhiều quốc gia, chủ nghĩa phát-xít mới ra đời, “chủ nghĩa dân túy-chủ nghĩa dân tộc cực đoan, bài ngoại” lên ngôi.
       Với dân tộc ta, tác động của Cách mạng Tháng Mười như thế nào?
Trên một số trang mạng gần đây có kẻ viết: Do “Hồ Chí Minh du nhập Chủ nghĩa Mác-Lênin nên đã diễn ra các cuộc chiến tranh "nồi da nấu thịt”; cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc chiến tranh “ủy nhiệm”, chiến tranh (bởi) “ý thức hệ”… Tiến trình lịch sử của dân tộc ta đã hoàn toàn bác bỏ những luận điệu sai trái nói trên.
       Còn nhớ, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam là thuộc địa của thực dân Pháp, chịu sự thống trị vô cùng tàn bạo. Từ Cách mạng Tháng Tám, lần đầu tiên dân tộc ta được độc lập sau hàng trăm năm bị thực dân đô hộ, lần đầu tiên nhân dân ta có nhà nước pháp quyền với chế độ chính trị tiên tiến-chế độ dân chủ, cộng hòa. Có được những thành tựu vĩ đại đó là nhờ Cương lĩnh chính trị của Đảng ta, do Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhận, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh đất nước. Cũng từ tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc và truyền thống yêu nước của ông cha ta, nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đập tan âm mưu áp đặt chế độ thống trị của chúng một lần nữa lên đất nước ta. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “…Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
      Cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ (1954-1975) là sự tiếp nối cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Về phía dân tộc ta, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ là sự tiếp nối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất đất nước. Sự khác biệt với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp nếu có thì chỉ là đế quốc Mỹ có tiềm lực lớn hơn, có tham vọng lớn hơn thực dân Pháp. Và sau khi thay chân Pháp, Mỹ đã tạo dựng được một chính quyền tay sai trên một phần đất nước ta. Hoàn toàn không có chuyện cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975) là cuộc “nội chiến”, là cuộc chiến tranh "ý thức hệ”, chiến tranh “ủy nhiệm”.
      Trong cuốn hồi ký mang tựa đề Hồi tưởng [2] (xuất bản năm 1995), Robert McNamara, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, người được xem là “kiến trúc sư” cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ đã rút ra 11 sai lầm mà Mỹ đã mắc phải trong cuộc chiến tranh này. Đáng chú ý có những sai lầm về tư tưởng chính trị sau: “Chúng ta (Mỹ) đã đánh giá sai những chủ đích địa chính trị của các đối thủ... và chúng ta đã phóng đại những mối nguy hại từ hành động của họ đối với nước Mỹ” (sai lầm 1); “Chúng ta đánh giá thấp sức mạnh của tinh thần dân tộc có thể huy động nhân dân đấu tranh và hy sinh vì đức tin và giá trị của họ” (sai lầm 3); “Chúng ta không chịu thừa nhận đánh giá của chúng ta về cái gì là lợi ích tốt nhất của đất nước và dân tộc khác… Chúng ta không được Thượng đế ban phát quyền nhào nặn mỗi dân tộc theo hình ảnh của chúng ta hay theo cách mà chúng ta lựa chọn” (sai lầm 8).
      Thời gian gần đây, một trong những thủ đoạn mà những kẻ tự xưng là người “bất đồng chính kiến”, chống “độc tài toàn trị”, những phần tử cơ hội chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thường tiến hành là xuyên tạc, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng ta bằng giọng điệu cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng kinh tế theo mô hình Liên Xô”, hoặc “lệ thuộc vào Trung Quốc”…
Về lập luận này, những ai có đôi chút kiến thức lịch sử thì đều có thể bác bỏ. Công cuộc xây dựng xã hội XHCN từ năm 1975 đến nay có thể chia ra làm hai thời kỳ: Từ năm 1975 đến 1986 và từ 1986 đến nay. Không phủ nhận rằng trong thời kỳ từ năm 1975 đến 1986, mô hình xây dựng đất nước của Việt Nam có nhiều điểm theo mô hình CNXH kiểu cũ. Tuy nhiên, giai đoạn này đã được thay đổi từ Đại hội VI của Đảng (năm 1986). Từ đây, mô hình xây dựng xã hội XHCN của nhân dân ta theo mô hình CNXH kiểu mới với nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Việc những phần tử cơ hội về chính trị cố tình “vơ đũa cả nắm”, cho rằng Đảng ta chủ trương xây dựng đất nước theo mô hình bên ngoài, nếu không là một thủ đoạn chính trị xấu xa thì cũng là một sự nhận thức ấu trĩ hết chỗ nói của họ.
      Về đường lối đối ngoại, những thủ đoạn xuyên tạc của các phần tử cơ hội rằng: Việt Nam "đi dây” trong quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ; Việt Nam ngả theo Trung Quốc để “giữ chế độ, giữ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”… đã bị thực tế bác bỏ hoàn toàn. Thực hiện đường lối đối ngoại, “Đa phương hóa, đa dạng hóa… các quan hệ quốc tế”, “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”, Việt Nam đã thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện với Hoa Kỳ. Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới của Đảng ta đã xác định rõ “đối tác” và “đối tượng” của cách mạng Việt Nam như sau: “Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”… Trong đối tác có đối tượng và ngược lại.
Việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ không có nghĩa “Việt Nam đi dây”. Đó là tư duy chính trị cổ hủ, hoàn toàn trái với xu thế chính trị của thời đại ngày nay.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét