Trong thời kỳ mới, cần có những giải pháp đồng bộ để phát huy nguồn lực văn
hóa, tạo bước đột phá để đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc.
NGUỒN LỰC VĂN HÓA ĐỐI
VỚI PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC BỀN VỮNG
Văn hóa luôn gắn kết
chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh
tế, xã hội, pháp luật, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Vì thế văn hóa được
xác định lànguồn lực nội sinhquan trọng của sự phát triển. Phát huy sức
mạnh “mềm” của văn hóa nhằm tạo ra nguồn lực văn hóa để phát
triển đất nước là yêu cầu cấp thiết trong thời kỳ mới.
Nguồn lực văn hóa là
tổng hòa các yếu tố văn hóa tác động đến hoạt động phát triển đất nước. Nguồn
lực văn hóa có sức mạnh vừa hữu hình, vừa vô hình, có cả yếu tố bên trong, yếu
tố bên ngoài... tất cả đều nhằm mục tiêu thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội theo hướng vì con người, vì hạnh phúc của con người và cộng đồng xã hội.
Nguồn lực văn hóa tổng hòa các yếu tố: Con người, các quan hệ văn hóa
và các sản phẩm văn hóa.
Con người là nguồn lực cốt lõi nhất trong nguồn lực văn hóa. Nguồn lực con
người là tổng hòa về phẩm chất, năng lực và trình độ,
trong đó, sức khỏe, tri thức, trí tuệ, năng lực, kỹ năng, lao động, đạo đức, ý
chí... làm nên động lực tinh thần của con người trong hoạt động kinh tế và đời
sống, tạo nên chất lượng sống, sự hài lòng và hạnh phúc của họ. Trong những
phẩm chất đó đặc biệt chú ý là ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập, tự
cường - nền tảng tinh thần, yếu tố cấu thành phẩm chất của con người Việt Nam,
đây là nội dung rất quan trọng của văn hóa Việt Nam. Vì thế, cần phát huy
truyền thống hiếu học, khả năng trí tuệ và khơi dậy khát vọng phát triển của
người Việt Nam để tạo ra động lực và sức mạnh nội sinh thúc đẩy sự phát triển
của đất nước.
Các quan hệ văn hóa trong nguồn lực văn hóa là sức mạnh văn hóa của một cộng đồng, giúp
cho cộng đồng đó phát triển bền vững.Các quan hệ văn hóa bao gồm: Hệ thống pháp
luật, hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, quy tắc ứng xử của các thành viên trong
mối quan hệ cộng đồng, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với
công việc, các mối quan hệ đó được “văn hóa hóa” trong hoạt động sống, tạo ra
môi trường thuận lợi để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Các sản phẩm văn
hóa là yếu tố trong nguồn lực văn hóa, bao gồm: Văn hóa ẩm
thực, văn hóa cư trú, văn hóa giải trí, nghệ thuật, hệ thống di sản văn hóa,
thị hiếu thẩm mỹ, uy tín, thương hiệu, các biểu tượng, phong tục, lễ hội... thể
hiện bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Các sản phẩm văn hóa cần
khai thác và phát huy giá trị, vai trò để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc.
Nhận thức sâu sắc vị
trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hóa, nguồn lực văn hóa trong phát
triển đất nước, ngay từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên năm 1930 của Đảng ta đã
đề cập đến phát triển văn hóa của dân tộc. Trong Đề cương văn hóa Việt
Nam, năm 1943, Đảng ta đã coi văn hóa là một trong ba mặt trận và chủ
trương phát triển văn hóa theo hướng: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng. Đảng đã
phát huy vai trò của văn hóa, tạo ra một luồng sinh khí mới tập hợp mọi tầng
lớp nhân dân để giành độc lập dân tộc, lập nên Nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông Nam Á.
Ngay sau khi giành độc
lập dân tộc, Đảng ta chủ trương: “Văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn
hóa” và “xây dựng đời sống mới”. Văn hóa Việt Nam tiếp tục trở thành động lực
tinh thần để huy động mọi nguồn lực cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa
cầu năm 1954.
Sau chiến thắng lịch
sử Điện Biên Phủ, Đảng ta quyết tâm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây
dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giành độc lập, thống nhất nước nhà. Văn hóa
và truyền thống dân tộc đã góp phần thôi thúc hàng triệu trái tim, phát huy mọi
nguồn lực để vừa xây dựng, phát triển nền văn hóa mới, con người mới, vừa kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã dốc lòng, dốc sức
giành Đại thắng, thu giang sơn về một mối vào Mùa xuân năm 1975.
Sau hơn 35 năm đổi mới
đến nay, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận về xây dựng, phát
triển văn hóa, con người trong thời kỳ mới: Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII;
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII; Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH (năm 1991); Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011); Nghị
quyết số 33 của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (năm 2014); Kết luận số 76-KL/TƯ
của Bộ Chính trị khóa XII về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TƯ của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”... Những chủ trương đó
đã góp phần to lớn đưa đất nước ta đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa lịch sử
trên các lĩnh vực, để “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Trong bối cảnh hiện
nay, Đảng ta xác định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người
Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất
nước và bảo vệ Tổ quốc”. Theo đó, cần kết hợp động lực kinh tế với động
lực tinh thần,thực hiện hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; phong
trào quần chúng xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu phát triển
văn hóa, con người toàn diện; con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm, vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng xã hội tiến bộ, văn minh,
phồn vinh, hạnh phúc. “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần
vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền
vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
PHÁT HUY NGUỒN LỰC VĂN
HÓA TRONG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC THỜI KỲ MỚI
Đảng ta xác định: “Các
nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi
phương diện chính trị, kinh tế, luật pháp, kỷ cương... biến thành nguồn
lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”(4). Việc kết hợp chặt chẽ giữa
nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt
với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội là điều kiện
quyết định cho sự phát triển bền vững đất nước. Để phát huy nguồn lực
văn hóa trong phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc thời kỳ mới,
cần quan tâm hơn nữa đến từng yếu tố trong tổng thể nguồn lực đó,
cụ thể là:
Thứ nhất, không ngừng
coi trọng, phát huynguồn lực con người.
Phải thực sự coi con
người là trung tâm, là chủ thể trong phát triểnđất nước phồn vinh,
hạnh phúcvà của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới. Cần khơi dậy và
phát huy tiềm năng sáng tạo; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển đất nước. Trong đó,
khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, tinh thần
độc lập, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển của toàn dân
tộc. Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến, tạo nguồn lực
nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất
nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Mỗi con người trong
cộng đồng là một chủ thể mang sức mạnh và tiềm năng văn hóa. Bằng trình độ và
kỹ năng hoạt động, các chủ thể mang tiềm năng văn hóa sẽ không ngừng sáng tạo
ra các giá trị mới, thúc đẩy xã hội phát triển, từng bước đạt đến tiến bộ xã
hội. Hoạt động của các chủ thể văn hóa có trí tuệ cao, nhân cách lớn sẽ đem lại
nhiều giá trị lớn cho xã hội và cộng đồng. Hoạt động đó càng có giá trị quan
trọng đối với tiến bộ xã hội, tác động mạnh mẽ tới sự phát triển kinh tế - xã
hội. Đồng thời, tiến bộ xã hội làm cho con người ngày càng phát triển cả về tài
năng, trí tuệ và hoàn thiện nhân cách.
Giáo dục - đào tạo,
khoa học - công nghệ phải thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội. Muốn vậy, phải coi trọng việc đào tạo và sử dụng nguồn
nhân lực chất lượng cao, Nguồn nhân lực có trình độ, chất lượng cao đó không
chỉ đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất nước bằng năng lực tham mưu, lãnh
đạo, quản lý, hạch toán, kinh doanh, xây dựng văn hóa... mà còn là những người
giữ vững bản lĩnh, đạo lý, ý chí, khát vọng phát triển; biết khơi dậy tiềm
năng, biến các giá trị văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh...
Bên cạnh đó, cần khai
thác và phát huy nguồn “tài nguyên” sáng tạo của mọi cộng đồng cư dân; chú
trọng giáo dục, bồi dưỡng các chủ thể văn hóa, nhất là thế hệ trẻ theo mẫu hình
con người Việt Nam thời kỳ mới: Vững vàng về chính trị, kiên định lập trường
cách mạng, giàu lòng yêu nước; có lòng tự hào, tâm huyết; có bản lĩnh và tinh
thần chủ động, khát vọng đổi mới sáng tạo, tự cường, ý chí vươn lên, sống thủy
chung; đoàn kết, có nghĩa, có tình, giàu tình thương và lòng vị tha, trọng đạo
lý, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, thanh lịch, văn minh, hiện đại.
Thứ hai, phát huy các
quan hệ văn hóa.
1) Quan tâm hơn nữa
đến việc xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị
tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương
thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội. Kết
hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm
cá nhân với bản thân, gia đình và xã hội để tạo ra văn hóa ứng xử văn minh,
lành mạnh, nhất là trong các cơ quan công quyền, trong cộng đồng, trên không
gian mạng...
2) Không ngừngxây dựng
Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa và đạo đức tiêu biểu cho giá trị văn hóa,
con người Việt Nam. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chủ động triển khai thực hiện
các nghị quyết, chỉ thị, chương trình, kế hoạch đi vào chiều sâu; tăng cường
phối hợp giữa các cấp, các ngành chặt chẽ, đồng bộ để nâng cao hiệu lực, hiệu
quả trong quản lý văn hóa; chủ động đưa phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ
sở phát triển thường xuyên, đều khắp và vững chắc. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp
không ngừng chủ động, đề cao vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, xây dựng
con người có nếp sống văn hóa, văn minh; đồng thời kiên quyết đấu tranh phòng,
chống lãng phí, tham nhũng, tiêu cực, để Đảng và hệ thống chính trị của chúng
ta thật sự “là đạo đức, là văn minh” đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc trong thời kỳ mới.
3) Đẩy mạnh hơn nữa
công tác tư tưởng, chú trọng tính kịp thời, tính chính xác và tính thuyết phục,
góp phần định hướng dư luận xã hội. Đổi mới hơn nữa công tác lãnh đạo, chỉ đạo
tuyên truyền, triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, chương
trình, kế hoạch của Trung ương; thường xuyên kiểm tra đánh giá kết quả thực
hiện. Trong đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chú trọng triển khai thực hiện có
hiệu quả chương trình hành động xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam trong thời kỳ mới một cách cụ thể, đồng bộ, toàn diện và hiệu quả. Đẩy mạnh
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kịp thời giải đáp một cách khoa học,
làm sáng tỏ những vấn đề mới, khó, phức tạp về phát triển văn hóa, con người
Việt Nam trong giai đoạn mới.
4) Nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước về phát triển văn hóa. Tăng cường tính chủ động
trongthể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và
các chính sách cụ thể, khả thi về phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt
Nam trong giai đoạn mới. Rà soát, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật, nhất là
cơ chế, chính sách phát triển các nguồn lực văn hóa phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam. Đẩy mạnh công tác sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý văn hóa từ Trung
ương đến cơ sở. Coi trọng yếu tố văn hóa trong quy hoạch đô thị...
5) Tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện chính sách về giáo dục - đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, nhất
là đối với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; thực sự coi đầu tư cho văn
hóa là đầu tư cho con người, cho sự phát triển. Hoàn chỉnh các văn bản pháp
luật về văn hóa, nghệ thuật, thông tin trong điều kiện mới; ban hành các chính
sách khuyến khích sáng tạo văn hóa và nâng mức đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn
hóa của nhân dân. Không ngừng bổ sung, hoàn thiện chính sách phát hiện, bồi
dưỡng, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh nguồn nhân lực cao trong lĩnh vực văn hóa,
nghệ thuật; tạo điều kiện cho sáng tạo văn hóa, nghệ thuật. Quan tâm đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, nhất là
cán bộ ở cơ sở và cán bộ làm công tác văn hóa. Nâng cao năng lực tham mưu, đề
xuất, quản lý các hoạt động văn hóa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội...
6) Kết hợp chặt chẽ
xây dựng môi trường văn hóa số với nền kinh tế số, xã hội số. Tạo cơ chế phối
hợp, liên kết đồng bộ trong phát triển ở mỗi ngành, lĩnh vực; có cơ chế phù hợp
để huy động xã hội hóa đầu tư cho các dự án thuộc lĩnh vực văn hóa, thể thao;
mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế, xúc tiến văn hóa du lịch; quan tâm đúng mức việc
tổ chức các sự kiện chính trị, giao lưu, hợp tác giữa các tỉnh, thành phố trong
nước với bạn bè quốc tế về văn hóa. Xây dựng và hoàn thiện thị trường văn hóa,
góp phần giải quyết mối quan hệ “văn hóa trong kinh tế” và “kinh tế trong văn
hóa”...
7)Phát huy sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong sự nghiệp phát triển văn hóa và con
người Việt Nam, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa
nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh là chủ yếu. Chú trọng
xây dựng môi trường văn hóa đạo đức lành mạnh gắn với các phong trào và danh
hiệu văn hóa...
8) Không ngừng đấu
tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng -
văn hóa. Tổ chức đấu tranh chặt chẽ, đồng bộ từ Trung ương tới cơ sở; tích cực,
chủ động ngăn chặn, phản bác cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, phi văn hóa, phản
văn hóa; tăng cường quản lý để hạn chế sự xâm nhập của các sản phẩm “gắn mác
văn hóa” nhưng có nội dung độc hại, ảnh hưởng xấu đến lối sống, mỹ tục, tập
quán và những truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam.
Thứ ba, đẩy mạnh phát
triển các sản phẩm văn hóa.
Cần phát huy vai trò
các ngành nghề truyền thống, thủ công mỹ nghệ, kinh nghiệm dân gian, trí tuệ và
tri thức khoa học trong phát triển các sản phẩm văn hóa.Thúc đẩy các nguồn lực
văn hóa liên kết với nhau thành véctơ tổng hợp tạo động lực phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc.
Phát triển các ngành
công nghiệp văn hóa toàn diện và đồng bộ. Trong đó chú trọng khai thác những
yếu tố công nghệ, kỹ năng, thông tin, truyền thống nghề nghiệp, tài năng... của
các chuyên gia, nhà khoa học và những người lao động có tay nghề cao. Phát triển
toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn
hóa; bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại; nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hóa mới...
Phát huy các di sản
văn hóa - thông qua các di sản một cách có văn hóa, tức là “văn hóa hóa” lĩnh
vực kinh tế và gia tăng giá trị kinh tế trong hoạt động văn hóa từ các di sản
văn hóa. Quan tâm phát triển du lịch trở thành một trong những ngành kinh tế
mũi nhọn; các công trình văn hóa, hoạt động văn hóa, môi trường văn hóa phải
trở thành sản phẩm du lịch hấp dẫn và được bảo tồn, khai thác một cách hợp
lý.../.
Đại tá, PGS. TS. DƯƠNG QUANG HIỂN
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét