Nhằm hạ bệ tượng đài, đặc biệt là những tượng đài vĩ đại – anh hùng dân tộc, đám lật sử có chiêu thức rất khốn nạn như thế này: đó là đem so sánh tượng đài đó với một tượng đài khác lừng lẫy không kém, và nói rằng hai người xung đột lý niệm với nhau. Chúng
nói rằng chiến công của người này thực sự là của người kia, khuyết điểm của người kia là lỗi người này tác động. Hội fan cuồng của 2 bên sẽ bắt đầu nảy sinh hoài nghi, và nhằm để thần tượng của mình hoàn hảo vô khuyết sẽ quay sang công kích vĩ nhân khác.Chiêu bài này vô cùng thâm độc, mang tính then
chốt trong chiến lược xét lại lịch sử, việc vờ ca ngợi người này để bôi nhọ
người kia một cách tinh vi ấy đã dắt mũi và định hướng được rất nhiều người,
hắt chậu nước bẩn lên những anh hùng dân tộc.
Như các bạn biết đấy, nhằm hạ bệ Stalin, chúng
đã phao ra âm mưu rằng Stalin là người phá bỏ những thành tựu và ý chí của
Lenin, dùng lời kể của nạn nhân và kẻ thù của Stalin để vu cho ông độc tài và khát
máu. Và rốt cục, chúng đã thành công tạo ra một mối xung đột, gây chia rẽ giữa
Stalin – biểu tượng của kỷ luật sắt đá của Hồng Quân với Lenin – ngọn đuốc sáng
soi lối con đường chính trị của Xô Viết.
Nói thêm một chút về sự ra đời của “Chủ nghĩa
xét lại”. Sau khi lãnh tụ Stalin mất, vào tháng 9 năm 1953, Nikita Khrushchyov
được bầu làm bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Mà
Khrushchyov là một con người hẹp hòi, nhất là lạicó tư thù với Stalin khi một
mực nhận định Stalin đã không dung thứ cho con trai của mình là Leonid.
Khrushchyov. Thế là sau khi nắm quyền, tại đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản
Liên Xô, ông ta đã đọc báo cáo về sự sùng bái cá nhân của I.V. Stalin. Và thế
là Khrushchyov đã đề ra cái gọi là kế hoạch Phi Stalin hoá, cũng như chủ nghĩa
xét lại.
Như các bạn biết đấy, nhằm hạ bệ Stalin, đám
chủ nghĩa xét lại được sự cổ vũ của Khrushchyov đã phao ra âm mưu rằng Stalin
là người phá bỏ những thành tựu và ý chí của Lenin, dùng lời kể của nạn nhân và
kẻ thù của Stalin để vu cho ông độc tài và khát máu. Và rốt cục, chúng đã thành
công tạo ra một mối xung đột, gây chia rẽ giữa Stalin – biểu tượng của kỷ luật
sắt đá của Hồng Quân với Lenin – ngọn đuốc sáng soi lối con đường chính trị của
Xô Viết.
(Dù ít hay nhiều, đám người theo chủ nghĩa xét
lại đã phần nào hạ bệ được Stalin, cũng phải nói thêm rằng chính chính
Khrushchyov đã chủ trương chung sống hòa bình với Chủ nghĩa Tư bản, đưa nhiều
thanh niên Liên Xô sang Hoa Kỳ du học và trực tiếp đề bạt, từng bước xé nát
những thành tựu xã hội dưới thời Stalin. Tuy tháng 10/1964 Khrushchyov đã bị hạ
bệ, nhưng 10 năm cầm quyền Khrushchyov cũng đã thành công gieo những mầm mống
bât ổn “Tự do dân chủ” vào Nhà nước Xô Viết).
Sau khi chủ nghĩa xét lại cũng như tư tưởng
của Khrushchyov được phổ cập, tại Việt Nam, đảng viên cộng sản phân hóa thành
hai nhóm, một nhóm chấp nhận chính sách xét lại của Khrushchev (chủ trương tạm
thời sống hòa bình với Hoa Kỳ), họ không muốn phát động chiến tranh vũ trang
giải phóng miền Nam ngay, mà cho rằng phải xây dựng nền tảng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc trước khi nghĩ đến đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Đám người này ảo
vọng có thể thống nhất hòa bình như Hiệp định Genève quy định; ngược lại, nếu
phát động đấu tranh vũ trang sẽ lo sợ Hoa Kỳ nhảy vào trực tiếp tham chiến, và
khi đó chẳng những sẽ thất bại mà còn làm mất lòng Liên Xô, khi đó Khrushchyov
đang cầm quyền.
Ở chiều ngược lại, có nhiều người chống đối
kịch liệt chủ nghĩa xét lại và theo quan điểm cứng rắn, tổ chức ngay chiến
tranh giải phóng miền Nam. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã từng phát biểu chỉ
trích Liên Xô và nhóm "chủ hòa" rằng: "Chúng tôi không ảo tưởng
và không đánh giá thấp Mỹ, có điều chúng tôi không sợ. Nếu ai đó cứ cho rằng
kiên quyết chống Mỹ là sẽ thất bại và dẫn đến chiến tranh hạt nhân, thì chỉ còn
có cách đầu hàng chủ nghĩa đế quốc". Trong hồi ký "Tử tù tự xử
lí" của Trần Thư, ông mô tả không khí lúc bấy giờ là "tâm lý chủ
chiến bao trùm xã hội miền Bắc.
Nhưng, cũng chính vì điều này khiến cho mối
quan hệ của Việt Nam và Liên Xô dưới thời Khrushchyov xảy ra mâu thuẫn. Xung
khắc giữa Hà Nội và Moskva đưa đến Liên Xô làm áp lực, đe dọa cắt viện trợ cho
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và thực sự viện trợ đã từng bước bị cắt giảm.
Phải lưu ý rằng, độc lập dân tộc của người
Việt Nam phải do chính người Việt Nam giành lấy, vận mệnh dân tộc phải do chính
người Việt quyết định, không thể ảo vọng tin vào lòng tốt của các nước đế quốc.
Và thực tế là đám đế quốc xưa nay luôn tráo
trở và lật lọng, tình hình tại Việt Nam giữa hai miền Nam Bắc từ năm 1960 trở
đi đã khiến Hiệp định Genève coi như không thể thi hành được nữa. Hội nghị
Trung ương lần thứ 9 tháng 12 năm 1963 đã chính thức thừa nhận đấu tranh vũ
trang là hình thức đấu tranh chủ yếu, kêu gọi các lực lượng cách mạng miền Nam
tìm cách giành thắng lợi trong thời gian ngắn nhất, bất kể có bị Liên Xô cắt
viện trợ.
Thật may, năm 1964 Khrushchyov đã bị hạ bệ.
Quan hệ Việt-Xô lập tức được cải thiện ngay sau khi Brezhnev lên thay thế
Khrushchyov năm 1964. Liên Xô sau đó lại viện trợ cho Việt Nam cực kỳ dồi dào
trong cuộc chiến tranh giải phóng đất nước.
Kế ly gián, gây chia rẽ dân tộc đó cũng được
đám lật sử trong Vietnam War sử dụng nhuần nhuyễn. Nhằm hạ bệ Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, chúng bắt đầu phao tin đồn rằng có một sự thù địch và kèn cựa giữa
Đại tướng và Cố Tổng bí thư Lê Duẩn, một con người vĩ đại khác. Ngay như trong
chiến thắng lịch sử mùa xuân 30/04/1975, chúng bắt đầu mang hết công lao cho Lê
Duẩn và phủ nhận hoàn toàn những đóng góp to lớn của Võ Nguyên Giáp. Chúng cũng
đã thành công tạo ra xung đột không cần thiết, mơ hồ tạo ra một suy nghĩ rằng
có xung đột, kèn cựa và đấu đá lẫn nhau trong nội bộ lãnh đạo.
Không, chỉ có sự đoàn kết và thống nhất lớn
lao mà dân tộc Việt Nam chúng ta mới có thể chiến thắng đế quốc Mỹ và bè lũ tay
sai ngụy quyền VNCH. Võ Nguyên Giáp – biểu tượng của tinh thần Quân đội nhân
dân Việt Nam, và Lê Duẩn – người đại diện cho ý chí của Đảng Cộng Sản sau khi
Hồ Chủ Tịch mất là hai đồng chí, hai người bạn thân thiết.
Tướng Giáp cũng như Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả
hai không hoàn hảo, nhưng họ vĩ đại. Phụng sự một đời cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước.
Gần đến ngày kỷ niệm chiến thắng lừng lẫy Điện
Biên Phủ, 07/05/1954, nhiều kẻ khốn nạn đang cố gắng nói rằng để có được chiến
thắng đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã sử dụng chiến thuật “nướng quân”, và bắt
đầu vờ ca ngợi Lê Duẩn để nhiều bạn hâm mộ ông quay sang nghi kỵ Tướng Giáp.
Một lũ đê hèn và khốn kiếp!
Thực tế thì năm 1952, Tổng Bí thư Lê Duẩn có
ra Bắc và lần đầu tiên gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tổng Bí thư Lê Duẩn đã sớm
tiên đoán không thể có bầu cử thống nhất hai miền và đã soạn thảo Đề cương cách
mạng miền Nam.
Cũng thời điểm ấy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp
được Hồ Chí Minh giao phụ trách chỉ đạo soạn thảo Nghị quyết 15, đáng chú ý là
tư tưởng của Tổng Bí thư Lê Duẩn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp về cách mạng miền
Nam có nhiều điểm trùng hợp.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết rằng: “Với
tôi, những năm công tác trong Bộ Chính trị, Anh (Lê Duẩn) đã thường xuyên trao
đổi ý kiến, thường là nhanh chóng đi đến nhất trí trong những vấn đề lớn; khi
có ý kiến khác nhau thì tranh luận thẳng thắn, những điều chưa nhất trí thì chờ
thực tiễn kiểm nghiệm. Lúc mới ra Bắc, Anh thường tâm sự với tôi những khó khăn
trong công việc… Từ sau Đại hội III và Đại hội IV, tôi đã ba lần đề nghị Anh là
Tổng Bí thư kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng Anh nói: “Anh là Tổng
chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí thư Quân ủy Trung ương, như vậy có lợi cho
lãnh đạo”.
Điều ấy có nghĩa là mặc dù có đôi khi khác
biệt nhau về nhận định, song TBT Lê Duẩn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn hoà
hợp, tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần đồng chí cao cả. Trên các cương vị khác
nhau họ đã đoàn kết cùng nhau dẫn dắt cả dân tộc đến bến bờ vinh quang, thống
nhất nước nhà; hoàn thành thắng lợi di chúc thiêng liêng của chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét