Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hòa bình
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân
của dân tộc, là kết tinh của văn hóa Việt Nam. Tư tưởng của Hồ Chí Minh trong
lĩnh vực đối ngoại mang đậm dấu ấn truyền thống ngoại giao của dân tộc, đó là
tư tưởng hòa bình, hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển giữa các dân tộc. Với vị
trí địa - văn hóa giao thoa nên trong suốt chiều dài lịch sử của mình, Việt Nam
đã tiếp xúc và giao lưu với nhiều nền văn hóa và văn minh.
Nắm bắt sự chuyển biến của thời đại
Cũng do vị trí chiến lược về địa -
chính trị, Việt Nam thường xuyên phải tiến hành các cuộc kháng chiến chống giặc
ngoại xâm mà kẻ thù luôn là các thế lực hùng mạnh và hung hãn. Liên tục trải
qua các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và chịu nhiều hậu quả nặng nề của chiến
tranh, Việt Nam là quốc gia hơn ai hết hiểu thế nào là giá trị của hòa bình.
Chính vì vậy, cùng với truyền thống
hòa hiếu và hữu nghị, người Việt luôn tìm cách gìn giữ hòa bình, tránh nạn binh
đao. Người Việt Nam chỉ buộc phải chấp nhận chiến tranh khi giới hạn cuối cùng
là chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc bị xâm phạm. Đó là lúc cả đất nước lại
nhất tề đứng dậy, trên dưới đồng lòng làm nên những chiến công hiển hách
Tư tưởng Hồ Chí Minh về hòa bình
Trong suốt chiều dài lịch sử hàng
nghìn năm, tinh thần hòa hiếu đã thấm sâu vào trong dòng máu nóng của mỗi người
dân nước Việt cả trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền đất nước giữ vững môi trường
hòa bình của khu vực và trên toàn thế giới và trong cả đời sống thường nhật.
Tinh thần ấy không bao giờ ngừng tắt mà nó luôn có sức thôi thúc, lan tỏa trong
đời sống con người. Và bất cứ ở đâu, khi nào có làn gió mới, ngọn lửa ấy lại được
thổi bùng lên mãnh liệt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân
của dân tộc, là kết tinh của văn hóa Việt Nam. Là một chiến sĩ cách mạng kiên
cường trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại là
biểu tượng của hòa bình và tình hữu nghị.
Hồ Chí Minh là một trong số
ít lãnh tụ cách mạng nhận thức được sự chuyển biến của thời đại
sẽ làm thay đổi quan hệ giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi toàn
cầu. Người coi đấu tranh thiết lập quan hệ bình đẳng giữa các quốc
gia, chống lại mọi sự áp đặt, thống trị bất công của các “nước
lớn” cũng là sự hoàn chỉnh của công cuộc giải phóng dân tộc.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
mang đậm dấu ấn truyền thống ngoại giao của dân tộc, đó là tư tưởng hòa bình, hữu
nghị, hợp tác và cùng phát triển giữa các dân tộc. Xuất phát từ tình thương yêu
con người, quý trọng sinh mạng con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách
ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện
pháp hòa bình.
Đối với Người, việc tiến hành chiến
tranh chỉ là giải pháp cuối cùng. Ngay cả khi bắt buộc phải tiến hành chiến
tranh để bảo vệ đất nước, Người vẫn tìm mọi cách nhằm cứu vãn hòa bình. Trong
kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư cho Chính phủ
và nhân dân Pháp, cho tướng lĩnh, binh sĩ quân đội Pháp và những kiều dân Pháp ở
Việt Nam, cho các chính phủ, các nhà hoạt động chính trị, văn hóa và nhân dân
các nước. Nội dung thư vừa tố cáo cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp,
vừa kêu gọi đàm phán hòa bình. Người không bỏ lỡ cơ hội nào để hòa giải với
Pháp.
Trong kháng chiến chống Pháp, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã sáng lập ra Ủy ban Hòa bình Việt
Nam nhằm góp phần vào sự nghiệp bảo vệ hòa bình của Việt Nam và mở rộng quan hệ
với phong trào hòa bình thế giới. Đây là một trong những tổ chức nhân dân đầu
tiên của Việt Nam do đích thân Bác Hồ là Chủ tịch danh dự đầu tiên.
Hòa bình là lợi ích cho các dân tộc
Trải qua gần 70 năm hoạt động,
cùng với sự thăng trầm của lịch sử, Ủy ban Hòa bình Việt Nam đã đóng góp tích cực
vào việc củng cố tinh thần đoàn kết của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân Việt
Nam và kêu gọi những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ Việt Nam
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc; đồng
thời cũng đóng góp tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì
hòa bình, bảo vệ công lý, chống chiến tranh xâm lược.
Chính vì thế, sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trước đây và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc ngày nay đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của đông đảo bạn
bè trên toàn thế giới, thông qua các hoạt động đối ngoại nhân dân đa dạng,
phong phú và sáng tạo. Đó là một trong những nhân tố quan trọng giúp chúng ta
làm nên những thắng lợi huy hoàng, có được độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc và
một Việt Nam như ngày hôm nay.
Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm của dân tộc, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Việt Nam luôn nêu cao ngọn cờ
hòa bình, đưa ra nhiều sáng kiến hòa bình, đồng thời đẩy mạnh hoạt động ngoại
giao làm cho dư luận thế giới thấy được thực chất của tình hình Việt Nam, bản
chất cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân, đế quốc và luận điệu hòa bình giả
dối của chúng.
“Ở Hồ Chí Minh, độc lập cho dân tộc
mình đồng thời là độc lập cho tất cả các dân tộc; giải phóng dân tộc để giải
phóng xã hội và giải phóng loài người. Con đường Hồ Chí Minh đi từ độc lập dân
tộc đến chủ nghĩa xã hội - đến “thế giới đại đồng” theo tư duy hiện đại cũng là
logic của con đường lương tri dân tộc đến lương tri thời đại để đạt tới sự hài
hòa cá nhân, dân tộc và nhân loại”, Giáo sư Vũ Minh Giang cho biết.
Theo Hồ Chí Minh, hòa bình là lợi
ích của tất cả các dân tộc, do đó phải đấu tranh cho hòa bình trên thế giới được
bền vững, “giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta. Vì lợi
ích của nhân dân lao động khắp thế giới là nhất trí”
Đối với Người, ai làm gì mang lại lợi ích cho
nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân
và Tổ quốc ta đều là kẻ thù... Phải yêu Tổ quốc, yêu nhân dân “Phải có tinh thần
dân tộc vững chắc và tinh thần quốc tế đúng đắn”
Đối với các đế quốc đem quân xâm
lược Việt Nam, Hồ Chí Minh phân biệt nhân dân với các Chính phủ cầm quyền, thúc
đẩy phong trào phản chiến của nhân dân các nước này, cô lập lực lượng hiếu chiến.
Trong tư tưởng và mọi hoạt động ngoại giao, Hồ Chí Minh luôn thấm nhuần đạo lý
của cha ông “Lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”
(Nguyễn Trãi). Chúng ta bất khuất, kiên cường chống chiến tranh xâm lược
nhưng luôn mở cánh cửa cho quân viễn chinh rút khỏi Việt Nam. Khi đã
đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, chúng ta vẫn đại lượng mở lòng hiếu
sinh tha cho quân xâm lược trở về quê cũ trong bình yên để tránh đổ máu thêm
cho hai dân tộc.
Đối với bạn bè và đồng chí, Người
luôn xây đắp tình cảm “vừa là đồng chí vừa là anh em” và tinh thần quốc tế
trong sáng. Đối với Người - một người dân mất nước, bị nô lệ thì giá trị tinh
thần lớn nhất là “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”. Nhiều năm từng làm nghề
lao động cực nhọc, từng nếm cảnh lao tù đày đọa, Người có mối đồng cảm thương
xót sâu sắc đối với số phận của tất cả các dân tộc bị áp bức. Vì vậy, ngay khi
bước vào cuộc đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh đã thực hiện được sự kết hợp giữa
đấu tranh giải phóng dân tộc mình với đấu tranh “giải phóng những người bị áp bức
khỏi các lực lượng thống trị, thực hiện tình yêu thương và bác ái”
Hồ Chí Minh gắn bó với dân tộc
mình, đồng thời cũng dành những tình cảm thắm thiết với mọi dân tộc trên thế giới,
luôn luôn ủng hộ những cuộc đấu tranh yêu nước và cách mạng bất cứ ở đâu, quan
tâm chí tình tới bạn bè quốc tế, chăm sóc ân cần mọi số phận con người bằng những
việc làm cảm động và thiết thực. Người là hiện thân của tinh thần “Quan san
muôn dặm một nhà, bốn phương vô sản đều là anh em” và lý tưởng “Người với người
là bạn”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo truyền thống hòa bình hữu nghị của dân tộc Việt Nam ở trong bất cứ
hoàn cảnh nào. Người đã chỉ đạo xây dựng đường lối ngoại giao theo tinh thần
giương cao ngọn cờ độc lập và hòa bình, tập hợp các lực lượng tiến bộ thành một
mặt trận quốc tế ủng hộ Việt Nam. Đó là những chủ trương đường lối đúng đắn,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, góp phần phá vỡ âm mưu của các đế quốc lớn
muốn biến chiến tranh xâm lược Việt Nam thành cuộc xung đột giữa hai hệ tư tưởng,
qua đó vạch trần thủ đoạn tàn bạo và những luận điệu xuyên tạc của các đế quốc
lớn.
Có thể khẳng định rằng, tư tưởng
hòa bình, hữu nghị luôn thường trực trong con người Hồ Chí Minh. Ngay cả khi phải
tiến hành cuộc đấu tranh một mất một còn với bọn đế quốc, thực dân để giành độc
lập dân tộc, Người cũng luôn luôn tìm kiếm mọi cơ hội đối thoại, đàm phán nếu
có thể để né tránh một cuộc chiến bạo lực, phi nghĩa./.
bài rất thiết thực
Trả lờiXóa