Thứ Hai, 25 tháng 9, 2023

 

Phản Bác Luận Điệu Xuyên Tạc, Chiêu Trò Chống Phá Của Các Tổ Chức Đội Lốt Nhân Quyền

Nhiều nhà nghiên cứu chính trị cho rằng, ở năm 2023 này việc phá hoại, xâm lược một quốc gia công chỉ đơn giản được thực hiện trên mặt trận quân sự như những giai đoạn trước, mà giờ đây còn được tiến hành một cách tinh vi hơn, thông qua lĩnh vực tuyên truyền bằng chiêu bài sử dụng các tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức phi chính phủ đội lốt nhân quyền. Việt Nam chúng ta vài chục năm trước đã từng rất ngạo nghễ khi đánh thắng được quân đội Hoa Kỳ hùng mạnh, nhưng giờ đây, một đạo quân khác của nước Mỹ cũng ở đẳng cấp hàng đầu thế giới, đó là nhân quyền, đã bắt đầu một cuộc chiến ngầm nhắm vào chúng ta. Và đó là thứ mà Việt Nam nên cảnh giác nếu không muốn bị rơi vào thảm kịch giống như Libya, Iraq hay Syria. Lâu nay, tổ chức theo dõi nhân quyền HRW (Human Rights Watch), đã nhiều lần đưa ra những thông tin sai trái bịa đặt nhằm phủ nhận thành quả bôi nhọ bức tranh dân chủ,  nhân quyền ở Việt Nam. Các luận điệu vu cáo của HRW gia tăng ngày càng tùy tiện, không chỉ thể hiện qua phát ngôn của đại diện Tổ chức này mà còn thể hiện qua các báo cáo, thông cáo báo chí. Trong một thông cáo phát đi vào ngày 8 tháng 6 năm 2023 (một ngày trước cuộc đối thoại nhân quyền Liên Hiệp Châu Âu Việt Nam tại Hà Nội), tổ chức HRW đã vu cáo rồi lấy cớ kêu gọi châu Âu gây áp lực để buộc Việt Nam chấm dứt các hành động vi phạm nhân quyền một cách có hệ thống.

Trước đó vào ngày 26 tháng 5 năm 2023, tổ chức này đã gửi đến Liên Hiệp Châu Âu một “tờ trình” về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam, yêu cầu EU gây sức ép để Chính quyền Hà Nội trả tự do ngay lập tức cho những người đang bị giam giữ vì lý do chính trị. Tổ chức này còn lên tiếng đòi sửa đổi hoặc hủy bỏ một số điều khoản trong Bộ luật hình sự mà họ cho rằng “thường được viện dẫn để đàn áp các quyền dân sự và chính trị, hạn chế quyền tự do đi lại đối với các nhà hoạt động nhân quyền và dân chủ”. Tổ chức HRW, được thành lập vào năm 1988 trên cơ sở hợp nhất tổ chức Helsinki Watch (thành lập năm 1978, với mục đích giám sát Liên Xô bằng cách thu thập tư liệu liên quan tới việc Liên Xô thực hiện quy ước của Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu (OSCE), hỗ trợ các nhóm bảo vệ nhân quyền tại nước này) với một số tổ chức quốc tế khác có cùng tôn chỉ, mục đích nghiên cứu và cổ vũ cho phát triển nhân quyền. Nói là truyền nghiên cứu và cổ vũ cho nhân quyền. Nhưng nhìn vào hoạt động của HRW cho thấy, lời nói không đi đôi với việc làm, ngày càng xa rời, thậm chí đi ngược tôn chỉ, mục đích. Do bị chi phối bởi nguồn kinh phí hoạt động nên dễ hiểu là các phúc trình về nhân quyền của tổ chức này thường sai sự thật, thiên vị, mang màu sắc chính trị và chủ quan áp đặt, do đó các cáo buộc của HRW gây ra phản ứng tiêu  cực tại nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là với các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Sau mỗi cáo buộc, tổ chức này thường bị phản ứng tức thì, bị chỉ trích chịu quá nhiều tác động bởi Mỹ và các nước phương Tây, thường xuyên lợi dụng nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Chẳng hạn, Liên bang Nga đã nhiều lần chỉ trích HRW về những động thái tuyên truyền xuyên tạc, kích động tạo cớ can thiệp vào những vấn đề nội bộ của nước này. Tương tự, do có những hành động vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế và các quy tắc cơ bản của quan hệ quốc tế cũng như can thiệp vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc nên chính phủ nước này đã áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với HRW. Và không phải ngẫu nhiên mà trang web của hacker HRW lại bị cấm hoạt động tại Thái Lan. Chính phủ nước này buộc phải cấm vì thông qua trang web, HRW thường xuyên đội lốt “theo dõi nhân quyền” để tuyên truyền xuyên tạc, phát tán những nội dung thông tin sai lệch, kích động, vi phạm các quy định về an ninh quốc gia họ. Ngoài ra, HRW còn bị nhiều quốc gia như Cuba, SriLanka, Triều Tiên, Syria, Ethiopia… chỉ trích, phản đối những nội dung và mức độ khác nhau Vì HRW đã can thiệp làm phức tạp tình hình, gây khó khăn cho việc bảo đảm nhân quyền ở các nước này.Thực tế đó cho thấy, mặc dù mang danh nghĩa là tổ chức hoạt động về nhân quyền nhưng hoạt động của HRW đều thể hiện ý đồ, động cơ chính trị. Nhìn vào các hoạt động của tổ chức này cho thấy sự bất hợp lý và ý đồ bôi nhọ, hạ uy tín, hình ảnh của Việt Nam và nhiều quốc gia khác trên thế giới. Một tổ chức không hiện diện ở Việt Nam, không nắm được tình hình thực tiễn nhân quyền ở Việt Nam song lại tự cho mình quyền phán xét về nhân quyền. Riêng điểm này đã cho thấy sự suy diễn, áp đặt từ các thông tin mà tổ chức này công bố và nguồn thông tin HRW có được thực chất, là do các tổ chức cá nhân chống phá Việt Nam cung cấp nhằm tạo cớ bôi nhọ, chống phá. Sự ghi nhận của quốc tế trong nỗ lực đảm bảo nhân quyền của Việt Nam. Ngay sau khi Việt Nam là thành viên của Liên Hợp Quốc (năm 1977), vào những năm 80 của thế kỷ trước, Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia vào các công ước quốc tế về quyền con người của Liên hiệp quốc. Vào những năm 1981, 1982 và 1983 Việt Nam đã gia nhập 7 công ước quốc tế về quyền con người, bao gồm: Công ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng trị tội ác diệt chủng; Công ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng trị tội ác Apartheid; Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc (CERD); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR); Công ước quốc tế về quyền kinh tế xã hội và văn hóa (ICESCR); Công ước quốc tế về không áp dụng thời hiệu tố tụng Đối với tội phạm chiến tranh và tội phạm chống lại nhân loại; Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW). Tính đến hết năm 2022 Việt Nam đã phê chuẩn gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên Hợp Quốc về quyền con người; phê chuẩn gia nhập 25 công ước của YLO, trong đó có 7/8 công ước cơ bản. So với nhiều nước trong khu vực và các nước phát triển, Việt Nam không thua kém về số lượng là thành viên của các cổng nước quốc tế về quyền con người. Ngay cả Mỹ hiện nay vẫn là nước duy nhất trên thế giới chưa phê chuẩn công ước quốc tế về trẻ em năm 1989. quốc gia này cũng chưa phê chuẩn công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966. Các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, chúng ta đều cam kết thực hiện và qua đó là trách nhiệm chính trị, pháp lý của nhà nước. Điều này là quan điểm nhất quán, xuyên suốt mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, đó là coi trọng chăm lo hạnh phúc của sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền con người và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết. Cùng với việc tích cực tham gia điều ước quốc tế về quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia trong đó tích cực nội luật hóa các nguyên tắc tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người; bảo đảm sự hài hòa giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế. Hiến pháp năm 2013 là đỉnh cao của hoạt động lập hiến về quyền con người khi dành trọn 36 điều trong tổng số 120 điều để quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân; cùng với các luật, bộ luật được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý cho việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Điều này không chỉ xác lập cơ sở pháp lý về các quyền của chủ thể hưởng quyền (cá nhân, công dân, các nhóm yếu thế trong xã hội) mà còn đặt nghĩa vụ, trách nhiệm cho các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước và các tổ chức phi nhà nước phải nâng cao tinh thần trách nhiệm xã hội, trách nhiệm pháp lý tôn trọng bảo vệ bảo đảm quyền con người đã được hiến pháp quy định là nhà nước có trách nhiệm chấp nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân (Điều 3 và khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013). Một trong những thành tựu nổi bật về nhân quyền là Việt Nam đã quan tâm thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm các quyền cơ bản cho nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Đến nay, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hơn 100 chính sách liên quan đến việc xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống và bảo đảm an sinh cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhờ thực hiện đồng bộ các chính sách đó, tỷ lệ nghèo đa chiều ở Việt Nam giảm từ 9.88% (năm 2015) xuống còn 3.73% (năm 2019). Cả nước hiện có gần 3 triệu người nghèo, người yếu thế được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí. Đặc biệt, phong trào “cả nước chung tay vì người nghèo không để ai bị bỏ lại phía sau” trong những năm qua đã nhận được sự hưởng ứng sâu rộng, hiệu quả của toàn xã hội. Từ một nước lạc hậu, không có tên trên bản đồ thế giới, sau hơn 70 năm huy động sức dân, đồng lòng thực hiện sự nghiệp kháng chiến, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Việt Nam đã trở thành một quốc gia hòa bình, độc lập, được cộng đồng quốc tế ghi nhận là một trong những nước tiên phong và là điểm sáng về thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Ngày 11 tháng 10 năm 2022, Việt Nam đã trúng cử trở thành thành viên của hội đồng nhân quyền liên hợp quốc nhiệm kỳ năm 2023-2025. Đây là lần thứ hai Việt Nam trúng cử vào hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc, lần đầu là nhiệm kỳ 2014-2016. Lá phiếu của mỗi quốc gia bầu chọn Việt Nam trúng cử thành viên của hội đồng nhân quyền liên hợp quốc là một chứng minh rõ ràng nhất và là sự khẳng định vị thế và uy tín của Việt Nam đối với quốc tế trong đảm bảo quyền con người. Sự ghi nhận của quốc tế không chỉ những đóng góp của chúng ta trong thúc đẩy quyền con người trên toàn cầu mà trước hết là sự ghi nhận đối với những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm các quyền cơ bản con người ở ngay trong nước. Theo đánh giá của chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) về phát triển con người toàn cầu từ năm 2021 - 2022, ngay cả trong giai đoạn khó khăn nhất của đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn thực hiện tốt việc đảm bảo quyền con người. Chỉ số phát triển con người tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu lên thứ 115 năm 2021. Về chỉ số phát triển giới, Việt Nam đứng thứ 65 trong số 162 quốc gia, nằm trong nhóm cao nhất trong năm nhóm trên thế giới. Đặc biệt, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam nằm trong nhóm cao nhất toàn cầu với những thành tựu và kinh nghiệm thực tế có được sẽ là cơ sở để Việt Nam tiếp tục thể hiện trách nhiệm góp phần thúc đẩy và bảo đảm quyền con người ở khu vực và quốc tế. Vì vậy, dù tổ chức HRW hay một số tổ chức khác có hành động vu cáo Việt Nam không có dân chủ, nhân quyền phúc cáo đàn áp mạng xã hội, đàn áp tôn giáo, không lo cho dân, bỏ mặc dân…thì chính những thành tựu về nhân quyền mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang làm được là minh chứng rõ nét nhất, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc. Bên cạnh các chiêu trò về nhà quyền các tổ chức phản động quốc tế cũng thường xuyên dùng chiêu bài “tự do báo chí” để xuyên tạc, chống phá Việt Nam. Lâu nay, các tổ chức như phóng viên không biên giới (RSF); của đài BBC, RFA, RFI, VOA tiếng Việt và một số sẽ tổ chức cá nhân phản động luôn tìm cách xuyên tạc, bịa đặt tình hình tự do báo chí tại Việt Nam. Mới đây RSF đã công bố cái gọi là báo cáo về “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2023”. Trong bảng xếp hạng, RSF, xếp 3 nước đứng cuối bảng đều ở Châu Á, trong đó xếp Việt Nam hạng 178. Tổ chức phóng viên không biên giới hay ký giả không biên giới là một tổ chức phi chính phủ với phạm vi hoạt động trên toàn cầu. Mục đích của họ được cho là bảo vệ tự do báo chí trên thế giới, chống kiểm duyệt và tạo áp lực giúp đỡ những nhà báo đang bị giam giữ. Tổ chức này lấy điều 19 của Tuyên ngôn quốc tế nhất quyền làm cơ sở để hành động. Phóng viên không biên giới được xác lập tại Montpellier, Pháp năm 1985. Hiện, tổ chức này có trụ sở tại quận 2, Paris, mở văn phòng tại Berlin, Brussels, Geneve, Madrid, Rome, Stockhlm, Tunis, Vienna và Washington DC. Văn phòng đầu tiên của họ ở Châu Á, đặt tại Đài Bắc, Đài Loan (Trung Quốc) vào tháng 7 năm 2017.  Ngoài ra, tổ chức này còn hoạt động chung với 150 thông tin viên, phóng viên trên khắp các châu lục cũng như với hàng chục tổ chức đảng phái độc lập với chính phủ. Nếu nhìn vào những thông tin trên thì nhiều người nghĩ RSF hoạt động “ngay hàng thẳng lối”, giúp thúc đẩy tự do và văn minh, thực sự vì sự phát triển của con người. Song thực tế thì lại hoàn toàn khác. Tuy viện dẫn Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc về nhân quyền, tự do ngôn luận nhưng RSF lại “hát theo người cho bánh mì”, bôi nhọ các nước khác trái, ngược với chủ trương của Liên hiệp quốc. nhiều quốc gia trên thế giới cáo buộc tổ chức RSF đứng đằng sau những vụ việc phức tạp, gây rối, bất ổn, kích động bạo lực. Thực chất, RSF tồn tại và hoạt động dựa vào một phần nguồn hỗ trợ kinh phí của một số chính giới phương Tây. Chính vì vậy, trong các bảng xếp hạng tự do báo chí hàng năm, thường tuân theo sự sắp đặt một cách có chủ ý của các chính phủ quốc gia tài trợ cho tổ chức này hoạt động. Những yếu tố được tổ chức này sử dụng để đánh giá tự do của một nền báo chí thiếu tính bao trùm, không cân nhắc đến các yếu tố văn hóa xã hội, nhận thức của từng Quốc gia riêng biệt. Phần lớn những thông tin được đưa ra là không khách quan, không có hoạt động khảo sát, kiểm chứng thực chất, mặc đó chỉ là những đánh giá thiếu căn cứ hoặc được suy diễn phóng đại. Về bản đánh giá tự do báo chí World Press Freedem Index hàng năm được RSF đưa ra, không khó để thấy căn cứ đánh giá xếp hạng của RSF không thuyết phục. Riêng đối với Việt Nam, RSF không có một nghiên cứu chưa sâu cụ thể nào về tình hình báo chí. Đồng thời tổ chức này cũng không sử dụng bất kỳ báo cáo của chính phủ Việt Nam để đưa ra đánh giá. Trái lại việc RSF xếp loại tự do báo chí ở Việt Nam lại thường dựa vào những thông tin do số tổ chức, cá nhân phản động thù địch, cơ hội chính trị, có các hoạt động vi phạm pháp luật Việt Nam cung cấp, do đó thông tin không khách quan sai thực tế về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Thực tế các đánh giá của tổ chức này thông qua bảng xếp hạng tự do báo chí thường niên không trung thực và không thể hiện được bản chất vấn đề. Chính vì vậy, mức độ tin cậy trong bảng đánh giá tự do báo chí được RSF đưa ra hầu như là không có. Với động cơ, cách làm như vậy, năm nay RSF vẫn xếp Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia đứng gần cuối trong “ Bảng xếp hạng chỉ số tự do báo chí thường niên năm 2023”. Cổ súy cho bảng xếp hạng là những luận điệu cũ rích được các trang BBC tiếng Việt RFA, RFI, VOA tiếng Việt và một số tổ chức, cá nhân phản động triệt để sử dụng nhằm mục đích quy kết vu khống Việt Nam không có tự do báo chí nên xếp hạng tự do báo chí Việt Nam luôn ở vị trí áp chót bảng. Bên cạnh đó họ xuyên tạc Đảng, Nhà nước Việt Nam Quảng báo chí theo chế độ “đăng ký”, “bị kiểm duyệt , “hà khắc”…Từ việc xuyên tạc trên, nhiều tổ chức và trang mạng xã hội thù địch, phản động kêu gọi thay đổi thể chế chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng thay đổi chính sách với những luận điệu xảo trá như” “Thể chế hiện nay không tạo môi trường để thay đổi báo chí được mà phải thay đổi thể chế sâu rộng”; “Nhà nước phải cho phép báo chí tư nhân hoạt động”. Không những vậy, một số cơ quan truyền thông phương tây thiếu thiện chí với Việt Nam như BBC, RFI, RFA, VOA và các hội nhóm, các cá nhân phản động trên YouTube, Facebook mỗi khi có sự kiện, vụ việc cụ thể liên quan đến báo chí là lại la lối, suy diễn, xuyên tạc tình hình trong nước. Với sự giúp sức của các tổ chức thù địch, một số đối tượng phản động trong nước tự đứng ra thành lập các hội nhóm phi pháp nhằm cổ súy cho cái gọi là “tự do báo chí”, “xã hội dân sự” theo mưu đồ của chúng. Những thông tin mà “Bảng xếp hạng thường niên về tự do báo chí" năm 2023 một lần nữa khẳng định sự thiếu khách quan sai thực tế và quy chụp của RSF về tình hình tự do báo chí tại Việt Nam. Sự thật về tự do báo chí tại Việt Nam. Việt Nam luôn là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, chúng ta tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có điều 19, tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do dự ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và cộng giới hạn về biên giới”. Báo chí là diễn đàn của nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, để nhân dân Trình bày những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình, thông qua đó báo chí thực hiện chức năng phản biện xã hội, đề xuất những ý kiến đối với Đảng, Nhà nước; định hướng dư luận trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự về an toàn xã hội. Điều đó càng được khẳng định rõ về quyền con người, quyền công dân trên lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được nhà nước ta bảo đảm, phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước và thông lệ quốc tế. Quyền tự do ngôn luận và quyền tiếp cận thông tin là những quyền cơ bản của quyền con người. của mọi công dân. Nhà nước Việt Nam đã xây dựng khung pháp luật về quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin của công dân đầy đủ, đồng bộ, hoàn toàn tương thích với pháp luật quốc tế về quyền con người. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin…việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Theo đó, khoản 1, điều 3, Luật tiếp cận thông tin năm 2016 cũng khẳng định: “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin”. Bên cạnh đó Luật Báo chí năm 2016 và Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 cụm quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí. Tính đến năm 2022, cả nước có 127 cơ quan báo, 670 cơ quan tạp chí (có 327 tạp chí lý luận chính trị và khoa học 72 tạp chí văn học nghệ thuật), 72 cơ quan đài phát thanh truyền hình, 77 kênh phát hành trong nước, 194 kênh truyền hình (7 kênh truyền hình thiết yếu Quốc gia 63 kênh truyền hình địa phương), 57 kênh nước ngoài. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí có 41 nghìn; trong đó, khối phát thanh, truyền hình, xấp xỉ 16.500 người. Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực báo chí ngày càng phát triển theo hướng hợp tác đa quốc gia và đà lĩnh vực. Hiện nay đã có gần 40 hãng truyền thông quốc tế có mặt tại Việt Nam, trong đó có nhiều hạng lớn như CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc) và hãng thông tấn Rossiya Segodnya (Nga). Các cơ quan truyền thông quốc tế như CNN, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Blooberg và hầu hết kênh truyền thông lớn trên thế giới đều đến được với công chúng Việt Nam dễ dàng, thuận tiện mà không có bất kỳ rào cản công nghệ hay pháp lý nào. Các nhà báo quốc tế được chính phủ Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi để tác nghiệp. Nhiều Nhà báo Việt Nam được Nhà nước tạo điều kiện đi học tập trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, tác nghiệp báo chí tại nhiều quốc gia trên thế giới. Đến nay, Việt Nam nằm trong top 20 nước có số người sử dụng internet lên cao nhất thế giới với 68,7% người sử dụng ,cao hơn mức trung bình của thế giới (51,4%). Có thể khẳng định rằng, ở Việt Nam, internet đã trở thành công cụ rất quen thuộc, là “một phần tất yếu trong cuộc sống của mọi tổ chức và cá nhân, nhất là trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; những tiện ích mang lại từ hệ thống Internet nhanh chóng được ứng dụng trong thực tiễn, nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của mọi tổ chức cá nhân. Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống chính trị trong những năm gần đây đã được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm; trong đó, công tác xây dựng Chính phủ điện tử, Quốc hội điện tử đã có bước tiến mạnh mẽ, hướng tới Chính phủ số, xã hội số và nền kinh tế số là một trong những ưu tiên hàng đầu trong giai đoạn năm 2016-2020 để tạo ra nền tảng vững chắc cho việc chuyển đổi số toàn diện trong giai đoạn năm 2021-2030. Đánh giá của Liên hợp quốc về phát triển Chính phủ điện tử, liên tiếp từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đều tăng hạng. Hiện, Việt Nam xếp thứ 86/193 quốc gia trên thế giới và đứng thứ 6 tại khu vực Đông Nam Á. Cùng với đó thông qua các trang mạng xã hội (Facebook, YouTube Viber,  Zalo, Instagram…), người dân Việt Nam có thể chia sẻ thông tin, hình ảnh, clip, bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân của mình về mọi vấn đề của đời sống xã hội. Trong hệ thống chính trị, bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương ở Việt Nam ngày càng có nhiều cơ quan, tổ chức sử dụng mạng xã hội để làm việc, giải quyết các thủ tục hành chính, giữ mối liên hệ với người dân, nắm bắt và giải quyết kịp thời tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân Với cơ sở chính trị, pháp lý đã khẳng định và thực tiễn đã chứng minh quyền tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng, bảo đảm, Thực hiện đó bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch về bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét