Phản Bác Luận Điệu Xuyên Tạc, Chiêu
Trò Chống Phá Của Các Tổ Chức Đội Lốt Nhân Quyền
Nhiều nhà nghiên cứu chính trị cho rằng, ở năm 2023 này việc phá hoại, xâm lược một quốc gia công chỉ đơn giản được thực hiện trên mặt trận quân sự như những giai đoạn trước, mà giờ đây còn được tiến hành một cách tinh vi hơn, thông qua lĩnh vực tuyên truyền bằng chiêu bài sử dụng các tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức phi chính phủ đội lốt nhân quyền. Việt Nam chúng ta vài chục năm trước đã từng rất ngạo nghễ khi đánh thắng được quân đội Hoa Kỳ hùng mạnh, nhưng giờ đây, một đạo quân khác của nước Mỹ cũng ở đẳng cấp hàng đầu thế giới, đó là nhân quyền, đã bắt đầu một cuộc chiến ngầm nhắm vào chúng ta. Và đó là thứ mà Việt Nam nên cảnh giác nếu không muốn bị rơi vào thảm kịch giống như Libya, Iraq hay Syria. Lâu nay, tổ chức theo dõi nhân quyền HRW (Human Rights Watch), đã nhiều lần đưa ra những thông tin sai trái bịa đặt nhằm phủ nhận thành quả bôi nhọ bức tranh dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Các luận điệu vu cáo của HRW gia tăng ngày càng tùy tiện, không chỉ thể hiện qua phát ngôn của đại diện Tổ chức này mà còn thể hiện qua các báo cáo, thông cáo báo chí. Trong một thông cáo phát đi vào ngày 8 tháng 6 năm 2023 (một ngày trước cuộc đối thoại nhân quyền Liên Hiệp Châu Âu Việt Nam tại Hà Nội), tổ chức HRW đã vu cáo rồi lấy cớ kêu gọi châu Âu gây áp lực để buộc Việt Nam chấm dứt các hành động vi phạm nhân quyền một cách có hệ thống.
Trước đó vào ngày 26 tháng 5 năm 2023, tổ chức này đã gửi
đến Liên Hiệp Châu Âu một “tờ trình” về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam, yêu
cầu EU gây sức ép để Chính quyền Hà Nội trả tự do ngay lập tức cho những người
đang bị giam giữ vì lý do chính trị. Tổ chức này còn lên tiếng đòi sửa đổi hoặc
hủy bỏ một số điều khoản trong Bộ luật hình sự mà họ cho rằng “thường được viện
dẫn để đàn áp các quyền dân sự và chính trị, hạn chế quyền tự do đi lại đối với
các nhà hoạt động nhân quyền và dân chủ”. Tổ chức HRW, được thành lập vào năm
1988 trên cơ sở hợp nhất tổ chức Helsinki Watch (thành lập năm 1978, với mục
đích giám sát Liên Xô bằng cách thu thập tư liệu liên quan tới việc Liên Xô
thực hiện quy ước của Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu (OSCE),
hỗ trợ các nhóm bảo vệ nhân quyền tại nước này) với một số tổ chức quốc tế khác
có cùng tôn chỉ, mục đích nghiên cứu và cổ vũ cho phát triển nhân quyền. Nói là
truyền nghiên cứu và cổ vũ cho nhân quyền. Nhưng nhìn vào hoạt động của HRW cho
thấy, lời nói không đi đôi với việc làm, ngày càng xa rời, thậm chí đi ngược
tôn chỉ, mục đích. Do bị chi phối bởi nguồn kinh phí hoạt động nên dễ hiểu là
các phúc trình về nhân quyền của tổ chức này thường sai sự thật, thiên vị, mang
màu sắc chính trị và chủ quan áp đặt, do đó các cáo buộc của HRW gây ra phản
ứng tiêu cực tại nhiều quốc gia trên thế
giới, đặc biệt là với các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Sau mỗi cáo
buộc, tổ chức này thường bị phản ứng tức thì, bị chỉ trích chịu quá nhiều tác
động bởi Mỹ và các nước phương Tây, thường xuyên lợi dụng nhân quyền để can
thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Chẳng hạn, Liên bang Nga đã nhiều lần
chỉ trích HRW về những động thái tuyên truyền xuyên tạc, kích động tạo cớ can
thiệp vào những vấn đề nội bộ của nước này. Tương tự, do có những hành động vi
phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế và các quy tắc cơ bản của quan hệ quốc tế
cũng như can thiệp vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc nên chính phủ nước này
đã áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với HRW. Và không phải ngẫu nhiên mà
trang web của hacker HRW lại bị cấm hoạt động tại Thái Lan. Chính phủ nước này
buộc phải cấm vì thông qua trang web, HRW thường xuyên đội lốt “theo dõi nhân
quyền” để tuyên truyền xuyên tạc, phát tán những nội dung thông tin sai lệch,
kích động, vi phạm các quy định về an ninh quốc gia họ. Ngoài ra, HRW còn bị
nhiều quốc gia như Cuba, SriLanka, Triều Tiên, Syria, Ethiopia… chỉ trích, phản
đối những nội dung và mức độ khác nhau Vì HRW đã can thiệp làm phức tạp tình
hình, gây khó khăn cho việc bảo đảm nhân quyền ở các nước này.Thực tế đó cho
thấy, mặc dù mang danh nghĩa là tổ chức hoạt động về nhân quyền nhưng hoạt động
của HRW đều thể hiện ý đồ, động cơ chính trị. Nhìn vào các hoạt động của tổ
chức này cho thấy sự bất hợp lý và ý đồ bôi nhọ, hạ uy tín, hình ảnh của Việt
Nam và nhiều quốc gia khác trên thế giới. Một tổ chức không hiện diện ở Việt
Nam, không nắm được tình hình thực tiễn nhân quyền ở Việt Nam song lại tự cho
mình quyền phán xét về nhân quyền. Riêng điểm này đã cho thấy sự suy diễn, áp
đặt từ các thông tin mà tổ chức này công bố và nguồn thông tin HRW có được thực
chất, là do các tổ chức cá nhân chống phá Việt Nam cung cấp nhằm tạo cớ bôi
nhọ, chống phá. Sự ghi nhận của quốc tế trong nỗ lực đảm bảo nhân quyền của
Việt Nam. Ngay sau khi Việt Nam là thành viên của Liên Hợp Quốc (năm 1977), vào
những năm 80 của thế kỷ trước, Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia vào các
công ước quốc tế về quyền con người của Liên hiệp quốc. Vào những năm 1981,
1982 và 1983 Việt Nam đã gia nhập 7 công ước quốc tế về quyền con người, bao
gồm: Công ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng trị tội ác diệt chủng; Công ước
quốc tế về ngăn ngừa và trừng trị tội ác Apartheid; Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc
(CERD); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị (ICCPR); Công ước quốc tế
về quyền kinh tế xã hội và văn hóa (ICESCR); Công ước quốc tế về không áp dụng
thời hiệu tố tụng Đối với tội phạm chiến tranh và tội phạm chống lại nhân loại;
Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ
(CEDAW). Tính đến hết năm 2022 Việt Nam đã phê chuẩn gia nhập 7/9 công ước cơ
bản của Liên Hợp Quốc về quyền con người; phê chuẩn gia nhập 25 công ước của
YLO, trong đó có 7/8 công ước cơ bản. So với nhiều nước trong khu vực và các
nước phát triển, Việt Nam không thua kém về số lượng là thành viên của các cổng
nước quốc tế về quyền con người. Ngay cả Mỹ hiện nay vẫn là nước duy nhất trên
thế giới chưa phê chuẩn công ước quốc tế về trẻ em năm 1989. quốc gia này cũng
chưa phê chuẩn công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966.
Các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, chúng ta đều
cam kết thực hiện và qua đó là trách nhiệm chính trị, pháp lý của nhà nước.
Điều này là quan điểm nhất quán, xuyên suốt mọi đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và nhà nước, đó là coi trọng chăm lo hạnh phúc của sự phát triển
toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền con người và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền
con người mà nước ta ký kết. Cùng với việc tích cực tham gia điều ước quốc tế
về quyền con người, Nhà nước Việt Nam đã nỗ lực xây dựng hệ thống pháp luật
quốc gia trong đó tích cực nội luật hóa các nguyên tắc tiêu chuẩn quốc tế về
quyền con người; bảo đảm sự hài hòa giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc
tế. Hiến pháp năm 2013 là đỉnh cao của hoạt động lập hiến về quyền con người
khi dành trọn 36 điều trong tổng số 120 điều để quy định quyền con người, quyền
và nghĩa vụ công dân; cùng với các luật, bộ luật được ban hành đã tạo khuôn khổ
pháp lý cho việc tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Điều này không
chỉ xác lập cơ sở pháp lý về các quyền của chủ thể hưởng quyền (cá nhân, công
dân, các nhóm yếu thế trong xã hội) mà còn đặt nghĩa vụ, trách nhiệm cho các cơ
quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước và các tổ chức phi nhà nước phải nâng
cao tinh thần trách nhiệm xã hội, trách nhiệm pháp lý tôn trọng bảo vệ bảo đảm
quyền con người đã được hiến pháp quy định là nhà nước có trách nhiệm chấp
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân (Điều 3 và
khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013). Một trong những thành tựu nổi bật về nhân
quyền là Việt Nam đã quan tâm thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm các quyền cơ bản cho
nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Đến nay, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã
ban hành hơn 100 chính sách liên quan đến việc xóa đói, giảm nghèo, phát triển
kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống và bảo đảm an sinh cho đồng bào các dân
tộc thiểu số. Nhờ thực hiện đồng bộ các chính sách đó, tỷ lệ nghèo đa chiều ở
Việt Nam giảm từ 9.88% (năm 2015) xuống còn 3.73% (năm 2019). Cả nước hiện có
gần 3 triệu người nghèo, người yếu thế được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí. Đặc
biệt, phong trào “cả nước chung tay vì người nghèo không để ai bị bỏ lại phía
sau” trong những năm qua đã nhận được sự hưởng ứng sâu rộng, hiệu quả của toàn
xã hội. Từ một nước lạc hậu, không có tên trên bản đồ thế giới, sau hơn 70 năm
huy động sức dân, đồng lòng thực hiện sự nghiệp kháng chiến, xây dựng và bảo vệ
tổ quốc, Việt Nam đã trở thành một quốc gia hòa bình, độc lập, được cộng đồng
quốc tế ghi nhận là một trong những nước tiên phong và là điểm sáng về thực
hiện các mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng và
tiến bộ xã hội. Ngày 11 tháng 10 năm 2022, Việt Nam đã trúng cử trở thành thành
viên của hội đồng nhân quyền liên hợp quốc nhiệm kỳ năm 2023-2025. Đây là lần
thứ hai Việt Nam trúng cử vào hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc, lần đầu là
nhiệm kỳ 2014-2016. Lá phiếu của mỗi quốc gia bầu chọn Việt Nam trúng cử thành
viên của hội đồng nhân quyền liên hợp quốc là một chứng minh rõ ràng nhất và là
sự khẳng định vị thế và uy tín của Việt Nam đối với quốc tế trong đảm bảo quyền
con người. Sự ghi nhận của quốc tế không chỉ những đóng góp của chúng ta trong
thúc đẩy quyền con người trên toàn cầu mà trước hết là sự ghi nhận đối với
những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm các quyền cơ bản con người ở ngay trong
nước. Theo đánh giá của chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) về phát
triển con người toàn cầu từ năm 2021 - 2022, ngay cả trong giai đoạn khó khăn
nhất của đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn thực hiện tốt việc đảm bảo quyền con
người. Chỉ số phát triển con người tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu
lên thứ 115 năm 2021. Về chỉ số phát triển giới, Việt Nam đứng thứ 65 trong số
162 quốc gia, nằm trong nhóm cao nhất trong năm nhóm trên thế giới. Đặc biệt,
tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội của Việt Nam nằm trong nhóm cao nhất toàn cầu với
những thành tựu và kinh nghiệm thực tế có được sẽ là cơ sở để Việt Nam tiếp tục
thể hiện trách nhiệm góp phần thúc đẩy và bảo đảm quyền con người ở khu vực và
quốc tế. Vì vậy, dù tổ chức HRW hay một số tổ chức khác có hành động vu cáo
Việt Nam không có dân chủ, nhân quyền phúc cáo đàn áp mạng xã hội, đàn áp tôn
giáo, không lo cho dân, bỏ mặc dân…thì chính những thành tựu về nhân quyền mà
Đảng và Nhà nước ta đã và đang làm được là minh chứng rõ nét nhất, bác bỏ mọi
luận điệu xuyên tạc. Bên cạnh các chiêu trò về nhà quyền các tổ chức phản động
quốc tế cũng thường xuyên dùng chiêu bài “tự do báo chí” để xuyên tạc, chống
phá Việt Nam. Lâu nay, các tổ chức như phóng viên không biên giới (RSF); của
đài BBC, RFA, RFI, VOA tiếng Việt và một số sẽ tổ chức cá nhân phản động luôn
tìm cách xuyên tạc, bịa đặt tình hình tự do báo chí tại Việt Nam. Mới đây RSF
đã công bố cái gọi là báo cáo về “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2023”.
Trong bảng xếp hạng, RSF, xếp 3 nước đứng cuối bảng đều ở Châu Á, trong đó xếp
Việt Nam hạng 178. Tổ chức phóng viên không biên giới hay ký giả không biên
giới là một tổ chức phi chính phủ với phạm vi hoạt động trên toàn cầu. Mục đích
của họ được cho là bảo vệ tự do báo chí trên thế giới, chống kiểm duyệt và tạo
áp lực giúp đỡ những nhà báo đang bị giam giữ. Tổ chức này lấy điều 19 của
Tuyên ngôn quốc tế nhất quyền làm cơ sở để hành động. Phóng viên không biên
giới được xác lập tại Montpellier, Pháp năm 1985. Hiện, tổ chức này có trụ sở
tại quận 2, Paris, mở văn phòng tại Berlin, Brussels, Geneve, Madrid, Rome,
Stockhlm, Tunis, Vienna và Washington DC. Văn phòng đầu tiên của họ ở Châu Á,
đặt tại Đài Bắc, Đài Loan (Trung Quốc) vào tháng 7 năm 2017. Ngoài ra, tổ chức này còn hoạt động chung với
150 thông tin viên, phóng viên trên khắp các châu lục cũng như với hàng chục tổ
chức đảng phái độc lập với chính phủ. Nếu nhìn vào những thông tin trên thì
nhiều người nghĩ RSF hoạt động “ngay hàng thẳng lối”, giúp thúc đẩy tự do và
văn minh, thực sự vì sự phát triển của con người. Song thực tế thì lại hoàn
toàn khác. Tuy viện dẫn Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc về nhân quyền,
tự do ngôn luận nhưng RSF lại “hát theo người cho bánh mì”, bôi nhọ các nước
khác trái, ngược với chủ trương của Liên hiệp quốc. nhiều quốc gia trên thế
giới cáo buộc tổ chức RSF đứng đằng sau những vụ việc phức tạp, gây rối, bất
ổn, kích động bạo lực. Thực chất, RSF tồn tại và hoạt động dựa vào một phần
nguồn hỗ trợ kinh phí của một số chính giới phương Tây. Chính vì vậy, trong các
bảng xếp hạng tự do báo chí hàng năm, thường tuân theo sự sắp đặt một cách có
chủ ý của các chính phủ quốc gia tài trợ cho tổ chức này hoạt động. Những yếu
tố được tổ chức này sử dụng để đánh giá tự do của một nền báo chí thiếu tính
bao trùm, không cân nhắc đến các yếu tố văn hóa xã hội, nhận thức của từng Quốc
gia riêng biệt. Phần lớn những thông tin được đưa ra là không khách quan, không
có hoạt động khảo sát, kiểm chứng thực chất, mặc đó chỉ là những đánh giá thiếu
căn cứ hoặc được suy diễn phóng đại. Về bản đánh giá tự do báo chí World Press
Freedem Index hàng năm được RSF đưa ra, không khó để thấy căn cứ đánh giá xếp
hạng của RSF không thuyết phục. Riêng đối với Việt Nam, RSF không có một nghiên
cứu chưa sâu cụ thể nào về tình hình báo chí. Đồng thời tổ chức này cũng không
sử dụng bất kỳ báo cáo của chính phủ Việt Nam để đưa ra đánh giá. Trái lại việc
RSF xếp loại tự do báo chí ở Việt Nam lại thường dựa vào những thông tin do số
tổ chức, cá nhân phản động thù địch, cơ hội chính trị, có các hoạt động vi phạm
pháp luật Việt Nam cung cấp, do đó thông tin không khách quan sai thực tế về
tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Thực tế các đánh giá của tổ chức này thông
qua bảng xếp hạng tự do báo chí thường niên không trung thực và không thể hiện
được bản chất vấn đề. Chính vì vậy, mức độ tin cậy trong bảng đánh giá tự do
báo chí được RSF đưa ra hầu như là không có. Với động cơ, cách làm như vậy, năm
nay RSF vẫn xếp Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia đứng gần cuối trong “ Bảng
xếp hạng chỉ số tự do báo chí thường niên năm 2023”. Cổ súy cho bảng xếp hạng
là những luận điệu cũ rích được các trang BBC tiếng Việt RFA, RFI, VOA tiếng
Việt và một số tổ chức, cá nhân phản động triệt để sử dụng nhằm mục đích quy
kết vu khống Việt Nam không có tự do báo chí nên xếp hạng tự do báo chí Việt Nam
luôn ở vị trí áp chót bảng. Bên cạnh đó họ xuyên tạc Đảng, Nhà nước Việt Nam
Quảng báo chí theo chế độ “đăng ký”, “bị kiểm duyệt , “hà khắc”…Từ việc xuyên
tạc trên, nhiều tổ chức và trang mạng xã hội thù địch, phản động kêu gọi thay
đổi thể chế chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng thay đổi chính sách với
những luận điệu xảo trá như” “Thể chế hiện nay không tạo môi trường để thay đổi
báo chí được mà phải thay đổi thể chế sâu rộng”; “Nhà nước phải cho phép báo
chí tư nhân hoạt động”. Không những vậy, một số cơ quan truyền thông phương tây
thiếu thiện chí với Việt Nam như BBC, RFI, RFA, VOA và các hội nhóm, các cá
nhân phản động trên YouTube, Facebook mỗi khi có sự kiện, vụ việc cụ thể liên
quan đến báo chí là lại la lối, suy diễn, xuyên tạc tình hình trong nước. Với
sự giúp sức của các tổ chức thù địch, một số đối tượng phản động trong nước tự
đứng ra thành lập các hội nhóm phi pháp nhằm cổ súy cho cái gọi là “tự do báo
chí”, “xã hội dân sự” theo mưu đồ của chúng. Những thông tin mà “Bảng xếp hạng
thường niên về tự do báo chí" năm 2023 một lần nữa khẳng định sự thiếu
khách quan sai thực tế và quy chụp của RSF về tình hình tự do báo chí tại Việt
Nam. Sự thật về tự do báo chí tại Việt Nam. Việt Nam luôn là thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, chúng ta tuân thủ luật pháp quốc tế, trong
đó có điều 19, tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền: “Mọi người đều có quyền tự do
ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do dự ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như
tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương
tiện truyền thông nào và cộng giới hạn về biên giới”. Báo chí là diễn đàn của
nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, để nhân dân Trình bày
những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình, thông qua đó báo chí thực hiện
chức năng phản biện xã hội, đề xuất những ý kiến đối với Đảng, Nhà nước; định
hướng dư luận trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự về an toàn xã hội. Điều đó càng được
khẳng định rõ về quyền con người, quyền công dân trên lĩnh vực đời sống xã hội,
trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được nhà nước ta bảo đảm,
phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước và thông lệ quốc tế. Quyền tự do ngôn
luận và quyền tiếp cận thông tin là những quyền cơ bản của quyền con người. của
mọi công dân. Nhà nước Việt Nam đã xây dựng khung pháp luật về quyền tự do ngôn
luận, báo chí, tiếp cận thông tin của công dân đầy đủ, đồng bộ, hoàn toàn tương
thích với pháp luật quốc tế về quyền con người. Điều 25, Hiến pháp năm 2013
khẳng định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin…việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Theo đó, khoản 1, điều
3, Luật tiếp cận thông tin năm 2016 cũng khẳng định: “Mọi công dân đều bình
đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin”.
Bên cạnh đó Luật Báo chí năm 2016 và Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 cụm quy
định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân
thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí. Tính đến năm 2022,
cả nước có 127 cơ quan báo, 670 cơ quan tạp chí (có 327 tạp chí lý luận chính
trị và khoa học 72 tạp chí văn học nghệ thuật), 72 cơ quan đài phát thanh
truyền hình, 77 kênh phát hành trong nước, 194 kênh truyền hình (7 kênh truyền
hình thiết yếu Quốc gia 63 kênh truyền hình địa phương), 57 kênh nước ngoài.
Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí có 41 nghìn; trong đó, khối phát
thanh, truyền hình, xấp xỉ 16.500 người. Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực báo chí ngày càng phát triển theo hướng hợp tác đa quốc gia và đà lĩnh
vực. Hiện nay đã có gần 40 hãng truyền thông quốc tế có mặt tại Việt Nam, trong
đó có nhiều hạng lớn như CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn
Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc) và hãng thông tấn Rossiya Segodnya
(Nga). Các cơ quan truyền thông quốc tế như CNN, TV5, NHK, DW, Australia
Network, KBS, Blooberg và hầu hết kênh truyền thông lớn trên thế giới đều đến
được với công chúng Việt Nam dễ dàng, thuận tiện mà không có bất kỳ rào cản
công nghệ hay pháp lý nào. Các nhà báo quốc tế được chính phủ Việt Nam tạo điều
kiện thuận lợi để tác nghiệp. Nhiều Nhà báo Việt Nam được Nhà nước tạo điều
kiện đi học tập trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, tác nghiệp báo chí tại nhiều
quốc gia trên thế giới. Đến nay, Việt Nam nằm trong top 20 nước có số người sử
dụng internet lên cao nhất thế giới với 68,7% người sử dụng ,cao hơn mức trung
bình của thế giới (51,4%). Có thể khẳng định rằng, ở Việt Nam, internet đã trở
thành công cụ rất quen thuộc, là “một phần tất yếu trong cuộc sống của mọi tổ
chức và cá nhân, nhất là trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư; những tiện ích mang lại từ hệ thống Internet nhanh chóng
được ứng dụng trong thực tiễn, nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí của mọi tổ chức cá nhân. Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống chính trị trong những năm
gần đây đã được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm; trong đó, công tác xây
dựng Chính phủ điện tử, Quốc hội điện tử đã có bước tiến mạnh mẽ, hướng tới
Chính phủ số, xã hội số và nền kinh tế số là một trong những ưu tiên hàng đầu
trong giai đoạn năm 2016-2020 để tạo ra nền tảng vững chắc cho việc chuyển đổi
số toàn diện trong giai đoạn năm 2021-2030. Đánh giá của Liên hợp quốc về phát
triển Chính phủ điện tử, liên tiếp từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đều tăng hạng.
Hiện, Việt Nam xếp thứ 86/193 quốc gia trên thế giới và đứng thứ 6 tại khu vực
Đông Nam Á. Cùng với đó thông qua các trang mạng xã hội (Facebook, YouTube
Viber, Zalo, Instagram…), người dân Việt
Nam có thể chia sẻ thông tin, hình ảnh, clip, bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân
của mình về mọi vấn đề của đời sống xã hội. Trong hệ thống chính trị, bộ máy
hành chính từ trung ương đến địa phương ở Việt Nam ngày càng có nhiều cơ quan,
tổ chức sử dụng mạng xã hội để làm việc, giải quyết các thủ tục hành chính, giữ
mối liên hệ với người dân, nắm bắt và giải quyết kịp thời tâm tư, nguyện vọng
chính đáng của quần chúng nhân dân Với cơ sở chính trị, pháp lý đã khẳng định
và thực tiễn đã chứng minh quyền tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng,
bảo đảm, Thực hiện đó bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, sai trái của
các thế lực thù địch về bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt
Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét