Qua 20 năm triển khai thực hiện Nghị
quyết số 23-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đạt nhiều thành quả cách
mạng to lớn.
Giá
trị truyền thống quý báu
Đại
đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh của dân
tộc Việt Nam, với những giá trị, triết lý đạo đức và nhân sinh: “Nhiễu điều phủ
lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”, “Lá lành đùm lá
rách”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”...
Tư
tưởng “Chúng chí thành thành” (ý chí quần chúng làm nên bức thành kiên cố) đã
quy tụ sức mạnh người dân, đứng chung chiến lũy đánh đuổi quân thù xâm lược,
đứng vững trước thiên tai, cùng nhau dựng nước và giữ nước.
Thực
hiện đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
viết: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng chỉ có thể hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình nếu biết tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong
Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi chống kẻ thù chung và xây dựng đất nước”.
Sau
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng ra Chỉ thị về việc thành lập Hội Phản đế đồng minh, hình thức tổ chức đầu
tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, đánh dấu sự phát triển về chất
của phong trào yêu nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ
đó đến nay, trải qua các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn nhất quán chủ trương
chăm lo khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xem đó là "việc gốc rễ" cho
mỗi thắng lợi cách mạng, đúng như khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”.
Càng
trong khó khăn, thử thách, sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam càng được
khẳng định; được bạn bè thế giới ghi nhận, tán dương, bày tỏ sự cảm phục. Ví
như, dù số đảng viên không lớn, với khoảng 5.000 đảng viên, trong khi Quân đội
vừa mới thành lập, nhưng Đảng ta đã tập hợp quần chúng thành một khối thống
nhất vững chắc, nhất tề đứng dậy giành chính quyền, làm nên cuộc Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 vĩ đại, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, cuộc chiến tranh nhân dân đã đánh bại những thế lực ngoại
xâm hùng mạnh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giành độc lập, thống nhất non sông.
Bước vào xây dựng xã hội mới, khi đất nước bị bao vây, cấm vận, khủng hoảng...
nhưng nhân dân vẫn tin theo Đảng, cùng Đảng tìm tòi đổi mới, tìm cách tháo gỡ
khó khăn. Đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng (năm 1986) xác định cũng
chính là kết quả của “ý Đảng, lòng dân”.
Rõ
ràng, chỉ khi đứng trước gian khó mới kiểm nghiệm được giá trị to lớn của thực
hành đoàn kết. Đó là nguồn sức mạnh nội sinh để dân tộc trường tồn, như khẳng
định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức
mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự
nghiệp cách mạng ở Việt Nam”.
Vun
đắp sức mạnh nội sinh
Đảng
ta khẳng định: Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải
phản ánh được nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số dân chúng để có thể tập hợp,
đoàn kết mọi lực lượng cho cách mạng. Bởi thế, Đảng đã ban hành nhiều nghị
quyết, chỉ thị về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, về đại đoàn kết
toàn dân tộc, về dân tộc, tôn giáo, về Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân...
Đặc
biệt, ngày 12-3-2003, Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW, xác định mục tiêu: Củng cố và tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc, giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại đoàn kết là sự
nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, mà hạt nhân lãnh đạo là các
tổ chức đảng; được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức; trong đó các chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu.
Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay. Những thành tựu đạt được trên tất cả lĩnh vực là kết quả đường lối, chủ
trương đúng đắn của Đảng với sự quyết tâm, nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân. Ngày 18-11 hằng năm trở thành Ngày hội đại đoàn kết toàn dân, góp phần
củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết; giáo dục truyền thống yêu nước,
tăng cường đồng thuận xã hội; góp phần xây dựng, phát triển quê hương, đất
nước.
Những
kết quả đạt được là vô cùng to lớn, tuy nhiên, những hạn chế, bất cập dù được
chỉ ra cách đây 20 năm trước trong Nghị quyết 23, thì đến nay vẫn có mặt chưa
khắc phục triệt để. Đặc biệt, lòng tin vào đội ngũ cán bộ, đảng viên và của một
bộ phận nhân dân vào Đảng, vào chế độ chưa thật vững chắc, phần vì đời sống còn
nhiều khó khăn, phần vì bất bình trước những bất công xã hội và tình trạng tham
nhũng, quan liêu, lãng phí vẫn diễn ra khá nghiêm trọng; kỷ cương phép nước
nhiều lúc, nhiều nơi không nghiêm; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; trật tự, an
toàn xã hội còn phức tạp...
Sức
mạnh liên minh công, nông, trí chưa được phát huy đúng mức; vai trò của công
nhân và nông dân ít được khẳng định trong điều kiện xã hội tri thức, xã hội số;
việc phát huy vai trò, đóng góp của kiều bào Việt Nam vào công cuộc đổi mới đất
nước vẫn chưa có giải pháp đồng bộ, căn cơ... Đặc biệt, việc xuất hiện những
“điểm nóng” ở Tây Nguyên (2001, 2004), Bình Thuận (2018), các vụ việc ở Tây Bắc,
Tây Nam Bộ, Tây Nghệ An, hay mới nhất là vụ việc ở Đắk Lắk đều nhằm mưu đồ gây
chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong
bối cảnh mới, nhất là sự phát triển của yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, thì việc
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải là một trong những ưu tiên hàng
đầu. Để làm được điều đó, cần chú trọng đổi mới mạnh mẽ hơn nữa sự lãnh
đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, trên cơ sở thực hiện tốt
cả hai vai trò: Vai trò thành viên và vai trò lãnh đạo. Xác lập đúng hơn
nữa vị trí, vai trò của MTTQ Việt Nam trong hệ thống chính trị để bảo đảm cho
MTTQ Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ xây dựng, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
Đảng,
Nhà nước tiếp tục nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách và quy định pháp luật
để MTTQ Việt Nam độc lập về tổ chức, chủ động về hoạt động; cơ chế, chính sách
bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng, hỗ trợ lẫn nhau trong mối quan hệ giữa
Nhà nước và MTTQ Việt Nam.
Cùng
với đó, toàn Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội phải nhất quán vận hành
phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng”, xem đó không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực để khơi dậy sức mạnh
nhân dân trong quá trình hiện thực hóa chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước vào cuộc sống. Hướng về cơ sở, tăng cường đối thoại với nhân dân
nhằm giải quyết những vướng mắc giữa chính quyền và nhân dân, đồng thời tạo
niềm tin, khuyến khích người dân tham gia góp ý xây dựng Ðảng, chính quyền.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét