Các phần tử cơ hội chính trị, phản động cho rằng, Việt Nam không có dân chủ vì thực hiện chế độ nhất nguyên, nhất đảng. Chúng ta có đầy đủ minh chứng để khẳng định rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam - lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc Việt Nam, của chính nhân dân Việt Nam.
Nhận diện “âm mưu, thủ đoạn” thâm độc của các
thế lực thù địch
Thời gian gần đây, trên mạng xã hội và một số
trang báo điện tử nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam, đã đưa ra những
thông tin sai trái, những bình luận ác ý, những lời lẽ xuyên tạc nhằm hướng dư
luận theo một cái nhìn tiêu cực về Đảng Cộng sản Việt Nam. Điển hình là tên
phản động Nguyễn Văn Đài đã liên tục tuyên truyền chống phá Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Hà Sĩ Phu với luận điệu cần từ bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng. Những
luận điệu đó không mới, và nó như câu cửa miệng của các thế lực thù địch, nhằm thực
hiện mục tiêu “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”. Chúng sử dụng mọi thủ
đoạn có thể nhằm chĩa mũi nhọn vào Đảng, xóa bỏ quyền lãnh đạo của Đảng
ta. Chúng đưa ra thông tin bịa đặt, bình luận xuyên tạc, xúc phạm Đảng và
Nhà nước Việt Nam. Chúng phủ nhận thể chế chính trị ở nước ta, kêu gọi Đảng ta
từ bỏ quyền lãnh đạo, vu cáo Đảng ta, coi đó là vấn đề căn bản, then chốt để
chống phá. Từ đó tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Minh chứng không thể chối cãi
Khi bàn về dân chủ, Lênin chỉ rõ: Nếu không khinh
thường lẽ phải và không khinh thường lịch sử thì ai cũng thấy rõ chừng nào còn
có những giai cấp khác nhau thì không thể nói đến dân chủ thuần túy được, mà
chỉ có thể nói đến dân chủ có tính giai cấp. Cái thứ dân chủ thuần túy, dân chủ
vô bờ bến chẳng qua chỉ là một công thức rỗng tuếch, đầy tính giả dối và lừa
bịp. Như vậy, thật sự là một đại bịp bợm, khi cho rằng “đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập” là có dân chủ thật sự.
Cũng cần phải nhận thức rõ rằng: Sẽ thật là
ngây thơ khi cho rằng “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” là có dân chủ thật
sự. Lý thuyết về đa đảng xuất phát từ chủ nghĩa đa nguyên - một trường phái
triết học xã hội tư sản do nhà triết học Đức Chiristian Woiff (1679-1754). Thực
chất của “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” là sự phân chia, tranh giành
quyền lực của các lực lượng chính trị trong xã hội khi không có sự điều hòa về
lợi ích. Chế độ “đa nguyên, đa đảng” đã sớm xuất hiện vào đầu thế kỷ XVIII. Đây
là thời điểm giai cấp tư sản đóng vai trò là lực lượng xã hội tiến bộ, tích cực
đi tiên phong trong đấu tranh chống phong kiến, bảo vệ quyền bình đẳng của các
nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, phát triển quyền tự do dân chủ tư sản. Song,
cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt từ khi chủ nghĩa tư bản
tự do cạnh tranh chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, ý nghĩa tích cực ban
đầu của đa nguyên, đa đảng đã không còn. Dù đã tìm mọi cách để che đậy song
giai cấp tư sản vẫn không thể phủ nhận được sự thực rằng: Mục đích cuối cùng,
mục tiêu duy nhất của chế độ “đa nguyên, đa đảng” trong xã hội tư bản là bảo
đảm quyền lực của giai cấp tư sản, bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột bằng mọi
giá.
Thực tế đã chỉ ra, “đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập” không phải là yếu tố quyết định để đảm bảo dân chủ sẽ thực hiện, mà phải
trả lời rõ câu hỏi: Đảng là đảng của ai, đại diện cho lợi ích của ai? Trả lời
câu hỏi này, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”.
Thực tiễn các nước cho thấy: Nhiều quốc gia tư
bản chủ nghĩa trong nhiều thập kỷ đã tồn tại chế độ một đảng lãnh đạo mà xã hội
vẫn ổn định, phát triển. Ngược lại, nhiều nước theo chế độ đa đảng đã rơi vào
bất ổn chính trị, khủng hoảng, bạo loạn kéo dài.
Thực tế lịch sử đất nước ta chỉ ra: Ở Việt Nam,
không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ
bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước ta. Ngày
03 tháng 02 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là sự lựa chọn của Nhân
dân ta, là sự chọn lọc của lịch sử dân tộc ta. Hơn 93 năm, Đảng đã lãnh đạo
Nhân dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách giành được thắng lợi có ý
nghĩa lịch sử đặc biệt, mang tính bước ngoặt đối với tiến trình lịch sử dân tộc
và mang tầm vóc thời đại: Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và thành
lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh
liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa
cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước
đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Qua 37 năm tiến hành công cuộc đổi
mới, 32 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội… Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng
hoảng, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung
bình. Chính sách xã hội được quan tâm, đời sống Nhân dân được cải thiện,
không ngừng nâng cao. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đảng đã lãnh đạo đất nước
từng bước vượt qua khó khăn về kinh tế và xã hội, với những thách thức an ninh
phi truyền thống chưa từng xảy ra trong lịch sử nhân loại, nhất là đại dịch
Covid - 19. Việt Nam được cả thế giới công nhận là một trong những quốc gia
thành công nhất trong phòng chống đại dịch Covid 19.
Cần phải nói thêm là thực tế không phải lịch sử
Việt Nam chưa từng có chế độ “đa nguyên, đa đảng” song chính lịch sử đã sớm phủ
định chế độ đó. Năm 1946, trước yêu cầu cách mạng đặt lợi ích quốc gia, lợi ích
dân tộc lên trên hết, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyên bố tự giải tán và mở rộng
Chính phủ dân tộc do Hồ Chủ tịch đứng đầu với sự tham gia của nhiều đảng phái
đối lập như Việt Quốc (Việt Nam Quốc dân đảng); Việt Cách (Việt Nam Cách mạng
Đồng minh hội),… Nhưng cùng với dòng chảy của cách mạng, những tổ chức, đảng
phái đó kẻ thì phản động “bán nước cầu vinh”, người xem nhẹ lợi ích quốc gia,
dân tộc nên đã bị chính lịch sử và Nhân dân ta loại bỏ. Khi quân Tưởng Giới
Thạch rút khỏi Việt Nam, hai đảng này cũng cuốn gói chạy theo, trên vũ đài
chính trị nước ta duy nhất chỉ còn lại Đảng Cộng sản Việt Nam đại diện quyền
lợi của Nhân dân lao động, lợi ích quốc gia, dân tộc. Lịch sử dân tộc ta chứng
minh, Việt Nam không cần thực hiện “đa nguyên, đa đảng”.
Tóm lại, quan điểm “đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập” mang nặng tính chất mị dân, rất nguy hiểm và rất dễ gây nên sự ngộ
nhận, nhất là đối với những người có nhận thức hạn chế. Từ đó, gây nên sự mơ
hồ, lẫn lộn, dao động về tư tưởng, làm suy giảm và mất dần niềm tin của Nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng, hoài nghi và tiến dần đến việc xóa bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam. Đây cũng là
nguồn gốc có thể làm cho tình hình kinh tế - chính trị - xã hội mất ổn định,
kinh tế suy giảm, văn hoá đạo đức xuống cấp, các mâu thuẫn và xung đột xã hội
sẽ gia tăng, phá vỡ khối đoàn kết dân tộc, khi đó, người dân không những không
được dân chủ, mà xã hội còn rơi vào rối loạn, khủng hoảng, trì trệ, không phát
triển được. Chúng ta có đầy đủ minh chứng lý luận và thực tiễn để khẳng định
rằng: “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” không thể và không bao giờ mang
đến dân chủ thực sự, Việt Nam không cần và không chấp nhận “đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập”./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét