CHIẾN THẮNG CHẾ ĐỘ DIỆT CHỦNG POL POT - NHỮNG SỐ LIỆU
BIẾT NÓI
1) Năm 1969, Pol Pot
theo sự khuyến khích của Trung Quốc yêu cầu Việt Nam rút quân đội và các cơ sở
hậu cần ra khỏi Campuchia (qua ngoại giao, Trung Quốc cũng gián tiếp kích động
Lon Nol đưa tối hậu thư đòi Việt Nam rút quân trong 48h, đóng cửa cảng trung
chuyển Sihanoukville) gây thêm khó khăn cho cách mạng Việt Nam thời kỳ 'Hậu Mậu
Thân". Điều này trái với các thỏa thuận trước đó trong Hội nghị nhân dân
ba nước Đông Dương (3/1965).
Tháng 1/1971, Pol Pot
xác định trong Nghị quyết IV: "Việt Nam là kẻ thù số 1, Mỹ là kẻ thù số
2". Từ 1970 - 1974, Khmer Đỏ đã bắt cóc, sát hại gần 1.000 chiến sĩ Việt
Nam; thực hiện hàng trăm vụ tịch thu hàng hóa, cướp bóc kho tàng với hàng chục
tấn lương thực, vũ khí.
Ngày 1/2/1978, Pol
Pot và đồng bọn ra Nghị quyết, ghi rõ: "Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi
tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20
năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu
người Việt Nam"
2) Từ tháng 5/1975 đến
tháng 12/1978, Khmer Đỏ lấn biên giới nước ta 9.872 vụ; giết hại tại chỗ 5.200
người, bắt và thủ tiêu sau đó 20.700 dân thường; đốt 21.200 ngôi nhà, trường học,
bệnh viện, đình chùa... làm cho hơn 400.000 người Việt chịu cảnh tị nạn chiến
tranh.
Ở trong nước, sau hơn
3 năm cầm quyền, Khmer Đỏ gây ra cái chết của từ 1,7 - 3,3 triệu người dân
Campuchia (chiếm khoảng 1/3 dân số nước này) - sự kiện diệt chủng ghê sợ nhất
thế kỷ XX tính theo tỷ lệ dân số. Chưa kể số người tàn tật (15 vạn), trẻ mồ côi
(20 vạn)...
3) 211.800 lính là tổng
quân số (3 thứ quân) Khmer Đỏ vào tháng 12/1978, trong đó có 23 sư đoàn chủ lực.
Quân đội Pol Pot được trang bị 450 pháo lớn (85, 105, 155mm); 3 trung đoàn tăng
- thiết giáp với 294 xe các loại; 1 sư đoàn phòng không với 200 khẩu pháo; 1 sư
đoàn không quân với 96 máy bay; 1 hải đoàn gồm 94 tàu, xuồng cao tốc.
22/12/1978, Pol Pot
điều động 19 trong tổng số 23 sư đoàn chủ lực tiến công toàn diện Việt Nam,
tính đánh một trận vang danh thế giới. Hướng chủ yếu đánh vào Tây Ninh, nhằm
chiếm bàn đạp nhanh chóng tiến về 'lấy lại' Sài Gòn.
4) Lực lượng Việt Nam
đối chọi trên chiến tuyến lúc đầu ước khoảng 250.000 người (18 sư đoàn bộ binh,
các trung đoàn, lữ đoàn độc lập và bộ đội địa phương). Tiến công sang đất
Campuchia ước khoảng 150 - 200.000 người. Lực lượng trên được trang bị khoảng
600 xe tăng- thiết giáp, hơn 400 pháo lớn và 139 máy bay chiến đấu, vận tải,
10.000 ôtô. Kể cả các đợt bổ sung, thay quân trong 10 năm ở Campuchia, đã có
hàng chục vạn lượt người chiến đấu tại đây - biến đội quân viễn chinh sang
Campuchia là lực lượng đánh ra nước ngoài lớn nhất trong lịch sử dân tộc.
5) Trong vòng 16 ngày
phản công (23/12/1978 đến 7/1/1979), quân đội Việt Nam sau khi đánh bật quân địch
ra khỏi biên giới đã tiến vào giải phóng Phnom Penh, lật đổ chế độ Khmer Đỏ.
Đây là chiến dịch hiệp đồng binh chủng lớn nhất của quân đội Việt Nam cho đến
hiện tại.
6) Từ tháng 5/1977 đến
tháng 1/1979, đã có 12.000 cán bộ, chiến sĩ Việt Nam hi sinh và 43.000 người bị
thương tật.
Quân đội Việt Nam tiếp
tục ở lại theo yêu cầu của chính quyền mới nhằm truy quét tàn quân Khmer Đỏ,
giúp xây dựng cơ sở vật chất, kinh tế, văn hóa - giáo dục - khoa học của nước
Campuchia hiện đại. Hàng vạn người con Việt Nam tiếp tục đổ máu để bảo vệ thành
quả ngày 7-1 cho đến khi tất cả họ hoàn thành nhiệm vụ và rút hết quân 10 năm
sau đó (1989).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét