DDT
M23/2019
Nội dung cơ bản
của tư tưởng nhà nước pháp quyền là: nhà nước mà trong đó mọi chủ thể (
kể cả các cơ quan nhà nước ) đều phải nghiêm chỉnh phục tùng pháp luật, một
pháp luật có tính pháp lý cao, phù hợp với lý trí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao cả nhất của xã hội,
của con người. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền, đã có từ lâu đời trong lịch
sử phát triển của xã hội loài người. Tuy
nhiên, nhà nước và pháp luật đều là công cụ thống trị của một giai cấp đối với toàn xã hội, do vậy
tư tưởng nhà nước pháp quyền trong các chế độ xã hội không thể giống nhau. Do vậy,
tìm hiểu tư tưởng nhà nước pháp quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, giúp chúng ta
quán triệt tư tưởng của Đảng, góp sức
mình biến tư tưởng của Đảng thành hiện
thực. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà
tệ tham nhũng, quan liêu đang trở thành quốc nạn, thì tư tưởng nhà nước
pháp quyền của Đảng là cơ sở lý luận để
xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, xứng đáng là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Cùng với những thành tựu
to lớn về nhiều mặt của công cuộc đổi mới, nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn về xây dựng nhà nước ngày càng sáng rõ, cho phép Đảng ta khẳng định quyết
tâm xây dựng nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân. Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức,
cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật.
Những luận điểm nêu trên thể hiện những nội dung cơ bản nhất về: bản chất, đặc điểm,
tổ chức của nhà nước pháp quyền ở nước
ta. Đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, vừa là tiếp thu có chọn lọc tư
tưỏng và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền đã có trong lịch sử, phù hợp với
đặc điểm và quá trình xây dựng nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ mới.
Xây dựng nhà nước thực sự của dân, do vì dân là quan điểm nhất
quán của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt
Nam trong toàn bộ tiến trình cách mạng. Vì vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền hiện
nay thực chất là xây dựng nhà nước thực
sự của dân, do dân, vì dân. Nhà nước
pháp quyền mà chúng ta xây dựng là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bản chất giai cấp của nhà nước pháp quyền ở nước ta vẫn là bản
chất giai cấp công nhân, khác hẳn với bản chất
của nhà nước pháp quyền tư sản .
Trong nhà nước pháp quyền ở nước
ta, nhân dân thực sự là chủ thể của quyền
lực nhà nước, là người tổ chức ra nhà nước, kiểm tra giám sát hoạt động của nhà nước; nhà nước là hình thức quyền lực của nhân dân, thông qua nhà nước mà quyền lực của nhân dân mang tính quyền lực nhà nước và
có hiệu lực trên thực tế ở phạm vi cả nước. Sức mạnh và quyền lực của nhà nước đều bắt nguốn từ nhân dân, chứ
không phải nhà nước là người ban quyền lực cho nhân dân. Nhân dân là người uỷ
quyền cho nhà nước, nhà nước và cán bộ công chức của nhà nước phải thực thi đúng quyền lực mà
nhân dân giao cho.
Hồ Chí Minh đã căn dặn: các cơ
quan của chính phủ từ toàn quốc cho đến
các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa
là ngánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như thời kỳ dưới
quyền thống trị của Nhật, Pháp. Việc gì
có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì hại đến dân, ta phải hết sức
tránh. Thấu suốt tư tưởng của Hồ Chí
Minh, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định:
nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của chính phủ từ
toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc
chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ thống trị của
Pháp, Nhật.
Việc
gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc
gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng
ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta.”[1]
Khi bàn về chế độ dân chủ Các Mác cho rằng: chế độ
dân chủ thực chất là chế độ do dân tự quy định nhà nước. Vì vậy, với tư cách là
công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải chủ động tạo môi trường, cơ chế
và điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, thực hiện quyền
làm chủ của mình trong tất cả các phương
diện của đời sống xã hội.
Trước hết, nhà nước phải tổ chức tốt quá trình dân
chủ hoá trên các phương diện: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Về hoạt động lập
pháp: cần tổ chức lấy ý kiến của nhân
dân vào các dự án luật, tổ chức trưng cầu ý kiến nhân dân về các vấn đề quan trọng của đất nước; tổ chức quá trình làm chủ trực
tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, các quy ước, hương ước tại cơ sở phù
hợp với luật pháp. Về hoạt động hành pháp: tổ chức cho nhân dân đóng góp ý kiến
vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội,
vào các quá trình qủan lý; thu hút nhân dân tham gia thực hiện quản lý theo
ngành, theo lãnh thổ; tổ chức cho nhân tham gia giải quyết những tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của công dân trong quá trình thực hiện quản
lý nhà nước.
Về hoạt động tư pháp: thu hút, huy động tối đa khả
năng của nhân dân, của các tổ chức xã hội và tổ chức nghề nghiệp
tham gia rộng rãi các hoạt động tư pháp, thông qua đó năng cao năng lực làm chủ
nhà nước và trách nhiệm chính trị của
nhân dân đối với nhà nước; tạo điều kiện để nhân dân làm quen với công việc quản
lý nhà nước.
Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân ở nước ta, tất cả quyền lực mà nhân dân uỷ thác
cho nhà nước phải được tổ chức phù hợp để
phát huy sức mạnh của nhân dân và tạo điều
kiện thuận lợi để nhân dân thực sự làm chủ trong kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, tránh sự lạm dụng
quyền lực từ phía nhà nước. Do đó, quyền lực nhà nước là tập trung, thống nhất,
không phân chia quyền lực cho các cơ quan nhà nước theo kiểu chế ước lẫn nhau
như nhà nước pháp quyền tư sản. Mặt khác
tập trung quyền lực luôn gắn chặt với sự phân công quyền lực cho các cơ quan
nhà nước, phối hợp thực thi các chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Để tạo khuôn khổ cho quá trình thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân, nhà nước phải thường
xuyên quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, giữ nghiêm kỹ cương xã hội. Nhà nước thể chế hoá đướng lối,
chủ trương lãnh đạo của Đảng, thể chế
hoá quyền, nghĩa vụ, lợi ích chính đáng
của nhân dân trong hệ thống pháp luật để khi ban hành nó có hiệu lực
pháp lý cao, buộc mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ công chức và mọi công dân phải
có nghĩa vụ chấp hành.
Mọi hành vi
vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm minh đó là nguyên tắc của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hồ Chí Minh đã dạy: giải quyết mọi công việc phải thấu lý trọn tình, phải có lòng khoan dung độ lượng,
nhưng pháp luật phải thẳng tay trừng trị những
kẻ bất liêm, bất kể kẻ đó ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy
nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường
cũng đang thường xuyên tác động đến mọi mặt
của đời sống xã hội, đặc biệt là tệ quan liêu tham nhũng trong bộ máy
nhà nước. Không ít cán bộ, công chức nhà nước lợi dụng chức quyền để thực hiện
hành vi tham nhũng, móc ngoặc tạo thành vây cánh để che chắn cho nhau trước
pháp luật.
Tệ tham nhũng đã trở thành một quốc nạn, là một
trong bốn nguy cơ de doạ đến sự tồn vong
của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Để đấu tranh chống
tệ quan liêu và tham nhũng thì một giải pháp có tính chất chiến lược là phải
xây dựng được một nhà nước pháp quyền thực sự
của dân, do dân, vì dân.
Muốn xây dựng
nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do
dân, vì dân thì vấn đề quan trọng hàng đầu là yếu tố con người. Phải lựa chọn,
đào tạo những con người có đủ phẩm chất
và năng lực đứng vững trước những cám dỗ, cạm bẫy của cơ chế thị trường. Mỗi giai đoạn cách mạng
khác nhau, đòi hỏi phải có tiêu chuẩn khác nhau đối với những cán bộ
của bộ máy nhà nước. Hơn bao giờ hết, hiện nay chúng ta càng thấm thía lời
dạy của Lê-nin: “ Trong vấn đề cải tiến bộ máy nhà nước, những yêu cầu đối với con người không hoàn toàn giống
như những yêu cầu đối với thời chiến
tranh” [2]. Muốn xây dựng bộ máy nhà nước thật sự có chất lượng, xứng đáng
với với danh hiêụ nhà nước xã hội chủ nghĩa, yêu cầu đầu tiên đối với con người là phải có trình độ văn hoá cần thiết.
Muốn có đủ
trình dộ văn hoá cần thiết, cần phải học tập và chỉ có học tập, cứ không thể chỉ
sử dụng bất cứ một trong những đức tính
tốt đẹp nhất của con người; không thể
thay thế kiến thức, học thức bằng sự sốt sắng, hấp tấp, vội vàng. Đồng thời việc
học tập không phải nhằm mục đích tự thân; những
kiến thức đã học phải thực sự gắn với cuộc sống, phải trở thành một bộ
phận khăng khít của cuộc sống phục vụ đắc
lực cho cuộc sống. Để phát huy hiệu quả
của đào tạo, phải bố trí sử dụng hợp lý, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và
năng lực của từng người.
Thực tế hiện nay ở nước ta còn có khoảng cách rất lớn
giữa đào tạo và sử dụng trong toàn xã hội nói chung cũng như trong bộ máy nhà
nước; nơi thừa, nơi thiếu, làm việc không đúng chuyên môn được đào tạo, làm
lãng phí thời gian và tiền bạc của từng
cá nhân cũng như toàn xã hội, hiệu quả công tác thấp. Để khắc phục được thực trạng
nêu trên cân phải thực hiện nguyên tắc: xuất phát từ việc để bố trí người chứ
không phải từ người mà bố trí việc.
Để xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân ,vì dân thì một nội dung
không kém phần quan trọng là: đội ngũ
cán bộ công chức nhà nước phải được đãi ngộ một cách xứng đáng với lao động của họ. Thu nhập của cán bộ công chức nhà nước bảo đảm để họ
có sống cao hơn mặt bằng chung của xã hội.
Tất nhiên, các khoản thu nhập phải được công khai hoá, tiền tệ hoá, chống các
thu nhập có tính chất đặc quyền, đặc lợi. Với mức thu nhập như vậy, không cần
tham nhũng cán bộ công chức vẫn sống
đàng hoàng.
Đi cùng với chế độ đãi ngộ xứng đáng thì cũng cần phải
có những chế định về pháp luật và kinh tế, để cán bộ công chức nhà nước không
dám tham nhũng. Trước hết về pháp luật cần quy định khung hình phạt nặng hơn đối
với cán bộ, công chức nhà nước vi phạm pháp luật; cùng một hành vi vi phạm,
nhưng cán bộ giữ cương vị càng cao thì hình phạt càng nặng. Về kinh tế, nếu cán
bộ công chức nhà nước tham nhũng gây thiệt hại về kinh tế thì phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về kinh tế; để tránh tẩu tán tài sản cho con, cháu,
họ hàng, pháp luật cũng cần có quy định: con, cháu, họ hàng của người tham nhũng phải chứng minh được
tính hợp pháp tài sản của mình, nếu
không tài sản của con, cháu, họ hàng sẽ
bị tịch thu để bồi thường thiệt hại kinh tế
mà người tham nhũng đã gây ra.
Để chống tham nhũng có hiệu quả cần phải tạo ra cơ chế để những người muốn tham nhũng cũng không thể tham
nhũng được. Muốn vậy phải thực hiện công khai, minh bạch mọi hoạt động của bộ máy nhà nước: công khai công tác cán bộ;
công khai thu nhập, quyền lợi và nghĩa vụ
của cán bộ, công chức nhà nước; công khai thu chi tài chính… Đồng thời với
công khai phải phát huy được vai trò của
tổ chức Đảng, các tổ chức quần chúng trong việc giám sát mọi hoạt động của cán
bộ và công chức nhà nước.
Đặc biệt là phải phải phát huy được vai trò giám
sát của nhân dân, vì không có một hành vi nào có thể qua được tai
mắt của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên,
để nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, cần phải có
những hình thức và biện pháp có hiệu quả
để bảo vệ những người dũng cảm đứng ra tố cáo những hành vi tham nhũng. Tham nhũng là quốc nạn,
là giặc nội xâm, vì vậy những người dũng
cảm chống tham nhũng phải được khen thưởng xướng đáng kể cả vật chất và tinh thần,
phải được tặng thưởng những danh hiệu
cao quý của nhà nước. Thực hiện những nội
dung trên đây chính là tạo ra một cơ chế để cán bộ, công chức nhà nước không cần,
không dám, không thể tham nhũng.
Sự nghiệp đổi mới
của nước ta hiện nay, đòi hỏi phải đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo định hướng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và đấu tranh chống tệ quan liêu tham nhũng. Quá
trính đó đòi hỏi Đảng ta phải trung thành với học thuyết Mác- Lênin về nhà nước
pháp luật; trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; tiếp thu có phê phán
tư tưởng, thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền và kinh nghiệm đấu tranh chống
tham nhũng của các nước trên thế giới.
Trên cơ sở đó, phải không ngừng đổi mới tư duy, vận dụng sáng tạo, định ra
phương hướng chủ trương giải pháp cụ thể để từng bước hoàn thiện nhà nước pháp
quyền Việt Nam thực sự là nhà nước mang
bản chất giai cấp công nhân, mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, đủ sức
mạnh hoàn thành sứ mạnh vẻ vang xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tài liệu tham khảo
1.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2000,T4, Tr.56,57
2. Lênin toàn tập, t45 Nxb tiến bộ M, t444
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét