Trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù
địch, phản động và cơ hội chính trị ráo riết gia tăng chống phá nền tảng tư
tưởng của Đảng ta nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; gây
mất ổn định chính trị - xã hội, tạo cớ can thiệp, kích động bạo loạn lật đổ,
thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để chống phá nền tảng tư tưởng
của Đảng, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng dùng nhiều thủ đoạn tinh vi,
xảo quyệt, nham hiểm, lợi dụng sự phát triển của internet, các phương tiện
truyền thông xã hội để xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận sự thật. Cụ thể, khi nói,
viết và phát tán các luận điệu chống phá, chúng cho rằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
là tư biện, lý thuyết, giáo điều”, “là sự sao chép máy móc chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, không phù hợp với thực tiễn hiện nay, bởi thế, cần từ bỏ để “kịp đi với
con đường chung mà thế giới hiện nay đang đi” - con đường tư bản chủ nghĩa
(!?). Các thế lực thù địch, phản động còn tìm mọi cách đả kích, bôi nhọ tấm
gương đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm “hạ bệ thần tượng” Hồ Chí
Minh trong lòng nhân dân..., đi đến phủ nhận vai trò, giá trị của tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam trong lịch sử, hiện tại và tương lai.
Những luận điệu trên của các thế lực thù địch, phản động và cơ
hội chính trị là những tiếng nói lạc lõng, ngụy biện, xảo trá, phản động, vô căn
cứ. Bởi vì, họ không hiểu hoặc cố tình không hiểu rằng, cùng với chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam
cho mọi hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam trong cách
mạng giải phóng dân tộc, cũng như trong công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh “đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên
nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và
tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc”.
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự lựa chọn của lịch sử, dân
tộc Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng xã hội
mới không có áp bức, bóc lột, bất công.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam vào giữa thế kỷ XIX,
phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai
phong kiến liên tiếp nổ ra trên khắp mọi miền đất nước. Tuy nhiên, do không có
một đường lối cách mạng đúng đắn và phương pháp cách mạng thích hợp, nên tất cả
các phong trào nổi dậy, các cuộc khởi nghĩa mang sắc thái giai tầng khác nhau
đều bị thất bại.
Trong sự bế tắc, khủng hoảng về đường lối cách mạng, đã xuất
hiện một người con ưu tú, kiệt xuất của dân tộc Việt Nam, gánh vác sứ mệnh lịch
sử, đó chính là Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh. Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và vượt qua tư duy lối mòn của
các nhà yêu nước tiền bối, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường
giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, nô dịch - con đường cách mạng vô sản. Cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc muốn thắng lợi phải
đi theo con đường cách mạng vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại
mới phải do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Sự lựa chọn con đường cách mạng của Người phù hợp với yêu cầu
của lịch sử dân tộc, là sự lựa chọn đúng đắn duy nhất của Việt Nam vào thời
điểm cách mạng đó. Ngày 3-2-1930, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đáp ứng
yêu cầu tất yếu của lịch sử.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhân dân Việt Nam đã phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc, tiến
hành ba cao trào cách mạng, làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm
1945. Đây là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân Việt Nam từ khi có Đảng
lãnh đạo, mở ra bước ngoặt lịch sử dân tộc, đưa dân tộc Việt Nam bước vào một
kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công đã khẳng định tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc bị áp bức trên
thế giới vì độc lập, tự do và phẩm giá con người. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh,
giải phóng dân tộc và đất nước không tách rời giải phóng giai cấp, giải phóng
xã hội, giải phóng con người. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự hội tụ
của mạch ngầm dòng chảy của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập, tự cường, tự
tôn dân tộc; lòng khát khao tự do, hạnh phúc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng
đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng, xã, Tổ quốc của dân tộc Việt Nam được
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy mạnh mẽ trong thời đại mới.
Tiếp nối thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự
lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam quyết chí, bền lòng
với một ý chí sắt đá “đánh nhau có hy sinh, có gian khổ, nhưng bền gan, vững
chí thì cuối cùng ta nhất định thắng, địch nhất định thua” cùng tinh thần
quyết tử “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”, theo một phương châm nhất quán: “Ta chỉ giữ gìn non
sông, đất nước của ta. Chỉ chiến đấu cho quyền thống nhất và độc lập của Tổ
quốc. Còn thực dân phản động Pháp thì mong ăn cướp nước ta, mong bắt dân ta làm
nô lệ. Vậy ta là chính nghĩa, địch là tà. Chính nhất định thắng tà”); trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dù cuộc “chiến tranh có thể kéo dài 5 năm,
10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí
nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì
quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất
nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!.
Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã lãnh đạo
nhân dân cả nước tiến hành 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, lập nên kỳ
tích Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; đưa đến ký kết Hiệp
định Genève vào năm 1954, lập lại nền độc lập, hòa bình ở Việt Nam. Miền Bắc
được hoàn toàn giải phóng, ra sức đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
làm hậu phương lớn cho miền Nam; miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân. Toàn thể dân tộc Việt Nam “giương cao mãi mãi ngọn cờ độc
lập dân tộc, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo
vệ miền Bắc, thống nhất đất nước để thỏa lòng mong ước của Người”. Với
quyết tâm “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
Việt Nam một lần nữa anh dũng chiến đấu, lập nên chiến thắng “Hà Nội - Điện
Biên Phủ trên không”, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris năm 1973 về chấm dứt
chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Tiếp đến là cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tiến
tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, sau cuộc trường chinh kéo dài suốt 30 năm, Việt
Nam đã giành thắng lợi vẻ vang trọn vẹn trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, ghi vào lịch sử mốc son chói lọi như lời Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa: “Nước ta sẽ có vinh dự lớn là
một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng 2 đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp
phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”.
Thứ hai, cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
tiếp tục là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam dẫn dắt soi đường cho toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện
nay.
Sau 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước (1975 - 1986),
dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ sâu thẳm
mệnh lệnh trái tim của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân ta “đổi mới hay là
chết”, Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước. Song, đổi mới như thế
nào, con đường, cách thức ra sao là những câu hỏi đặt ra trong thời điểm đó.
Đại hội VI (tháng 12-1986) của Đảng nhấn mạnh: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta
phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kế
thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng ta chỉ rõ phải: “Nêu cao tư tưởng Hồ Chí
Minh” và khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991): “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu
tinh hoa trí tuệ của dân tộc và nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực
tiễn đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng
của nhân dân”. Sự khẳng định đó cho thấy vai trò to lớn, giá trị lịch sử và ý
nghĩa hết sức quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam
trước đây, cũng như đối với công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay; thể hiện bước phát triển mới trong
tư duy, nhận thức và hoạt động thực tiễn về nền tảng tư tưởng của Đảng ta, cùng
với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cơ bản cấu
thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của Đảng Cộng sản Việt Nam;
đồng thời, bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, thể hiện rõ ý chí
kiên quyết đấu tranh phản bác những những luận điệu sai trái, phản động, thù
địch, đi ngược lại tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tại Đại hội IX (tháng 4-2001), Đảng ta lần đầu tiên nêu định
nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả
sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh
của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân
tộc ta”. Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI
(tháng 1-2021) của Đảng, tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động… Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; là di sản tư tưởng và lý luận vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và
dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành
thắng lợi”. Đây là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận
của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh.
“Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”, tại Đại hội XIII (tháng 1-2021) của Đảng,
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Qua 35 năm tiến hành công
cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng
bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với
những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói
rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức
sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua
nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật
khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối
đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng
đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của
Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp
tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn
thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai
đoạn mới”(14). Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản,
cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế mà chúng ta đang phải đối mặt với những
thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước. Trong khi đó, “Các thế lực
thù địch chống phá ngày càng quyết liệt. Đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia,
toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều thách thức”. Vì vậy, “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên
định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc
trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống
còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng
ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”.
Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị vô cùng to lớn
đối với cách mạng Việt Nam, mà còn có giá trị to lớn đối với phong trào cách
mạng thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sản phẩm của dân tộc, của giai
cấp công nhân Việt Nam, mà còn là sản phẩm của thời đại, của nhân loại tiến bộ.
Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đã bắt kịp nhu cầu khát vọng của thời đại; tìm ra
con đường đấu tranh tự giải phóng cho các dân tộc thuộc địa; có sức cổ vũ mạnh
mẽ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả giải phóng con người.
Vấn đề trên được thể hiện ở cả phương diện lý luận và thực tiễn
cách mạng thế giới hết sức sinh động. Cụ thể là, ngay những năm 20 của thế kỷ
XX, trong quá trình hình thành, tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện khát vọng
chung của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Những nhận thức sâu sắc và độc
đáo về mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng
giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản phản ánh khát vọng độc lập,
tự do của các dân tộc trên thế giới trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại, đặt cách mạng giải
phóng dân tộc thuộc địa vào phạm trù cách mạng vô sản và hoạt động không mệt
mỏi cho phong trào cách mạng thế giới. Người kiên quyết bảo vệ và phát triển
quan điểm của V. I. Lê-nin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược của cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối với cách mạng vô sản. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh, giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người
nhận thức sâu sắc về mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Đồng
thời, Người chỉ rõ tầm quan trọng đặc biệt của độc lập dân tộc trong tiến trình
đi lên chủ nghĩa xã hội, về tính tự thân vận động của công cuộc đấu tranh giải
phóng của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, về mối quan hệ giữa cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc, về khả
năng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa nổ ra và thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc. Khẳng định bài học chung của các dân tộc, Người nhấn
mạnh, “... trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự
lãnh đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng
rãi trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong
mặt trận thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế
giới…, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi” .
Tư tưởng Hồ Chí Minh và cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú
đầy nhiệt huyết của Người là một tấm gương sáng cổ vũ các dân tộc trên thế giới
tham gia cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội. Hai
tiếng “Việt Nam - Hồ Chí Minh” đã vang lên ở nhiều nước trên thế giới, là nguồn
cổ vũ bất tận, động viên các dân tộc thuộc địa bị áp bức, đứng lên đấu tranh
giành nền độc lập, đòi quyền sống, quyền làm người, quyền mưu cầu hạnh phúc. Tư
tưởng Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ mãi mãi là chân lý sáng ngời, góp phần vào sự
phát triển của nhân loại. Tôn vinh Người và giá trị tư tưởng của Người, năm
1987, Khóa họp Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc
(UNESCO) về kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thông qua
nghị quyết tôn vinh Người là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt
xuất của Việt Nam”. Trong lòng nhân dân thế giới, Chủ tịch Hồ Chi Minh là bất
tử, tư tưởng của Người còn sống mãi. Bạn bè năm châu khâm phục và coi Người là
biểu tượng cao đẹp của những gì thuộc về lương tri và phẩm giá làm người. Ca
ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới Romesh Chandra
đã viết: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và
ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở
đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu, nhân dân chiến
đấu cho một thế giới mới, chống đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ
Chí Minh bay cao”.
Sự nghiệp đấu tranh cách mạng và công cuộc đổi mới của Việt Nam
thực hiện theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã giành được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, đã và đang cổ vũ cuộc đấu tranh chung của nhân loại tiến bộ vì
hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Đó cũng chính là minh chứng sinh
động và thuyết phục nhất khẳng định giá trị vĩ đại, sức sống trường tồn của tư
tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời tự nó phản bác và đập tan những luận điệu xuyên
tạc về tư tưởng của Người, đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong
suốt hơn nửa thể kỷ qua” và “Thế giới sẽ còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ
Chí Minh vẫn sống mãi”./.
V3.
bài rất ý nghĩa
Trả lờiXóa