Thời
gian qua Trung Quốc có nhiều hành động vi phạm trên Biển Đông và có những phát
ngôn hoàn toàn trái ngược với lịch sử, điều đó gây ra những quan ngại đối với
Việt Nam và các nước trong khu vực. Người Phát ngôn Bộ Ngoại
giao Lê Thị Thu Hằng cho biết duy trì hòa bình, ổn định, an ninh an toàn, tự do
hàng hải, hàng không ở Biển Đông là lợi ích và trách nhiệm của các nước trong
và ngoài khu vực. Việt Nam mong muốn các nước tăng cường hợp tác, đóng góp thiết
thực vào hòa bình, ổn định vì mục tiêu nói trên.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Kim - Phó Hiệu trưởng Trường
Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội xác định “Trong tâm thức của nhiều cộng đồng cư dân cổ Việt Nam, Đông
Hải - Biển Đông là Không gian
thiêng gắn liền với thời lập quốc. Bao thế hệ người Việt Nam đã
hoài niệm về nguồn cội, về các huyền thoại Lạc Long Quân - Âu Cơ, Sơn Tinh -
Thuỷ Tinh, Tiên Dung - Chử Đồng Tử, Mai An Tiêm… Từ huyền thoại của người Việt
đến truyền thuyết Hỗn Điền - Liễu Diệp của cư dân Óc Eo - Phù Nam… đều chứa
đựng những triết lí nhân sinh, sắc màu huyền nhiệm của một truyền thống văn hoá
Việt Nam đa dạng, thống nhất. Các huyền thoại, truyền thuyết đó đã gợi mở biết
bao suy nghĩ về sự tiếp giao giữa các vùng và không gian văn hoá, sức mạnh của
các trung tâm kinh tế, sự linh ứng giữa con người với thế giới tự nhiên, về sự
kết giao giữa các truyền thống văn hoá, những xung lực và cả những động lực tạo
nên yếu tố nội sinh, ngoại sinh trong cuộc chuyển mình lớn lao của dân tộc ta thời
lập quốc.
Trong
không gian biển rộng lớn của người Việt Nam, ngay từ điểm khởi nguyên đã góp
phần tạo dựng nên những nền văn hoá và truyền thống văn hoá lớn như Đông Sơn ở
phía Bắc, Sa Huỳnh - Champa ở miền Trung và Óc Eo - Phù Nam ở Nam Bộ, Việt Nam.
Môi trường văn hoá, kinh tế biển đã tạo nên những động lực mạnh mẽ cho sự hưng
khởi của nhiều nền văn hoá và sự hình thành, phát triển của các nhà nước cổ đầu
tiên trên Tổ quốc ta. Ví thế, trong nghiên cứu lịch sử - văn hoá Việt Nam hiện
nay, cùng với cách Tư duy châu
thổ hay Tư duy lục
địa, các nhà nghiên cứu đã và đang hướng đến một cách tiếp cận
mới, Tư duy từ biển hay Tư duy từ đại dương (View from
the Sea). Cách nhìn và tiếp cận đó không chỉ đã làm rõ hơn những đặc tính lịch
sử, văn hoá mà còn đem lại những nhận thức mới toàn diện, hệ thống hơn về lịch
sử, văn hoá Việt Nam.
Điều
đáng chú ý là, từ chỗ coi đánh bắt hải sản là nguồn sống cơ bản, các lớp cư dân
cổ đã sớm vươn ra biển, phát triển kinh tế biển, mở rộng kinh tế đối ngoại và
giao thương trên biển… Các hoạt động kinh tế đó đã đem lại nguồn lợi lớn cho
các chính thể và nhiều cộng đồng cư dân sống ven biển, trên biển. Sức mạnh kinh
tế và tiềm năng to lớn của đại dương đã trở thành động lực cuốn hút nhiều dòng
người ra khai phá vùng duyên hải, biển đảo. Và họ đã đem đến các không gian văn
hoá ven biển, trên biển những dấu ấn văn hoá đặc trưng của châu thổ thậm chí
của cả các vùng trung du, núi cao. Qua các di chỉ khảo cổ học và dấu trưng văn
hoá có thể thấy, các thế hệ người Việt Nam đã sớm thể hiện khả năng khai thác
biển và chinh phục biển khơi. Bằng những phương tiện đi biển giản đơn, các cộng
đồng cư dân cổ, những chủ nhân các nền văn hoá từ Hạ Long đến Đông Sơn, Sa
Huỳnh, Champa, Phù Nam… đã vươn ra làm chủ các đảo, quần đảo. Mặt khác, các yếu
tố văn hoá biển, đảo cũng thâm nhập, hoà luyện với các truyền thống văn đất
liền. Với cư dân biển đảo miền Trung, những mảnh gốm đặc trưng của văn hoá Sa
Huỳnh với các mô-típ hoa văn điển hình hình sóng nước đã được phát hiện không
chỉ ở các di chỉ khảo cổ học ven biển, trên đất liền mà còn ở các chuỗi đảo xa
bờ và cả ở quần đảo Trường Sa của Tổ quốc.
Sau
khi phục hưng được nền độc lập dân tộc, vào thế kỉ X, trong thế đi lên của một
quốc gia tự chủ, các triều đại Lý (1009-1225), Trần (1226-1400) cũng như các triều
đại sau đó như: Lê sơ, Mạc hay chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài, chính quyền
Nguyễn ở Đàng Trong… đã vươn mạnh ra khai phá, làm chủ Biển Đông. Điều cần nhấn
mạnh là, trước một đế chế Tống hùng mạnh, vương triều Lý vẫn hướng mạnh ra phía
biển, khai thác các tiềm năng của biển, phát triển quan hệ giao thương. Năm
1149, vua Lý Anh Tông (1138-1175) đã cho khai mở trang Vân Đồn đồng thời phát triển Vân Đồn thành trung tâm
kinh tế đối ngoại lớn nhất ở vùng biển đảo Đông Bắc của quốc gia Đại Việt. Với
tầm nhìn rộng lớn, đích thân nhà vua đã nhiều lần đi tuần du các đảo, xem hình
thế núi sông, thăm hỏi cư dân và sai người vẽ bản đồ biển đảo. Trong lịch sử,
trước sự xâm nhập của các đế chế khu vực, dân tộc ta đã tổ chức nhiều trận thuỷ
chiến, quyết chiến trên biển và đã bảo vệ trọn vẹn chủ quyền dân tộc, các vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Không
chỉ nổi tiếng về nghề đi biển, giàu truyền thống về thuỷ quân, các thế hệ người
Việt Nam còn nổỉ tiếng về khả năng buôn bán, bang giao trên biển. Nằm trên một
trong những tuyến chính của hệ thống hải thương châu Á, trong lịch sử nhiều
thương cảng, trung tâm kinh tế đối ngoại đã được thiết lập. Các thương cảng này
từng giữ vai trò là các Trung tâm
kinh tế vùng, Liên vùng, Trung
tâm kinh tế liên thế giới như: Vân Đồn (Quảng Ninh), Phố Hiến (Hưng
Yên), Hội Thống (Hà Tĩnh), Thanh Hà (Thừa Thiên - Huế), Hội An (Quảng Nam), Thị
Nại - Nước Mặn (Bình Định), Cù Lao Phố (Đồng Nai), Hà Tiên… Đến thời cận hiện
đại, truyền thống đó vẫn được tiếp nối với các thương cảng như: Hải Phòng, Đà
Nẵng, Sài Gòn v.v… Đó đều là những thương cảng lớn, là điểm đi về của nhiều
thương nhân trong nước, khu vực và quốc tế trong nhiều thế kỉ.
Với
quần đảo Trường Sa, trên các đảo Trường Sa Lớn, Nam Yết, Song Tử Tây, An Bang…
trong những năm 1993-1999, một số cuộc thăm dò, thám sát, khai quật khảo cổ học
đã được thực hiện. Các nhà khảo cổ học, sử học đã tìm thấy nhiều hiện vật, gốm
sứ từ thời đại Sa Huỳnh, Champa đến các hiện vật điển hình của các triều đại
Trần, Lê sơ cho đến thời Nguyễn. Các bằng chứng khảo cổ học đó không chỉ cho
thấy sự xuất hiện sớm mà
còn là những minh chứng khoa học giàu sức thuyết phục về sự hiện diện liên tục của người Việt trên
các vùng biển đảo của đất nước. Các hiện vật đó, cùng với những tư liệu lịch sử
được ghi lại trong các bộ sử như: Đại
Nam thực lục tiền biên, Khâm
định Đại Nam hội điển sử lệ, Đại Nam nhất thống chí, Phủ biên tạp lục, Lịch
triều hiến chương loại chí… là những bằng chứng lịch sử, góp phần quan
trọng khẳng định và bảo vệ chủ quyền của đất nước ta.
Vào
thế kỉ XVI-XVIII, trong thời đại hoàng kim của Hệ thống hải thương châu Á, các
chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã sớm nhận thấy vai trò quan trọng và tiềm năng to
lớn của các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và đã cho lập các đội Hoàng Sa, Bắc
Hải phái cử đến các đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Côn Lôn, Hà Tiên nhằm thu hải vật
và khẳng định chủ quyền. Các chúa Nguyễn như Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc
Lan, Nguyễn Phúc Chu… hay các vua nhà Nguyễn mà điển hình là Gia Long, Minh
Mạng…, đã liên tục phái cử các lực lượng dân binh, thuỷ binh đến xây dựng đền
miếu, vẽ hải đồ, đo đạc hải trình, lập bia chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa và nhiều vùng đảo khác ở Biển Đông.
Cũng
trong khoảng thời gian đó, trong quá trình thăm dò, tìm kiếm, phát triển quan
hệ giao thương với phương Đông, nhiều nhà hàng hải, thám hiểm phương Tây như Bồ
Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Pháp… khi đi qua hay ghé vào vùng biển Việt
Nam đã có những ghi chép, mô tả, vẽ bản đồ khá chi tiết về vị trí của các quần
đảo Paracels và Spratly (tức Hoàng Sa - Bãi Cát
Vàng, Trường Sa) cũng như các vùng biển đảo khác của Việt Nam. Cùng với các
nguồn tư liệu trong nước, các nguồn tư liệu, thông tin quốc tế đó đã và đang
được khai thác triệt để phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế; nghiên cứu,
quy hoạch các không gian văn hoá - xã hội đồng thời góp phần bảo vệ chủ quyền,
nguồn lợi kinh tế của dân tộc.
Trong
bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, nhận thức rõ những đặc tính và xu thế phát
triển mới của Thế kỉ đại dương,
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để phát triển kinh tế
biển, bảo vệ chủ quyền và an ninh biển. Trong những thập kỉ qua, vị thế biển
Việt Nam và các hoạt động kinh tế biển đã và đang trở thành những lĩnh vực quan
trọng trong sự phát triển của đất nước. Nguồn thu từ dầu khí, từ các hoạt động
hàng hải, vận tải, dịch vụ biển; khai thác, đánh bắt hải sản… đang chiếm tỉ
trọng đáng kẻ trong tổng thu nhập quốc dân. Mặt khác, trong khi mở rộng tầm tư duy dân tộc ra phía
biển, chúng ta cũng nhận thấy Biển Đông trong đó có Hoàng Sa, Trường Sa
đang là nơi tồn tại nhiều mâu thuẫn kinh tế, chính trị khu vực, thế giới; là
một trong những “điểm nóng” trong quan hệ quốc tế. Biển Đông là nơi tập trung
những mặt đối lập, thuận lợi và khó khăn, hợp tác và đấu tranh, hoà bình và
nguy cơ mất ổn định, những tranh chấp đa phương, song phương; chứa đựng những
mâu thuẫn cả về quốc phòng và an ninh kinh tế đối ngoại. Để bảo vệ chủ quyền
biển đảo, Việt Nam đã và đang tích cực phối hợp với các quốc gia khu vực để
thực hiện Công ước của Liên hợp
quốc về Luật biển năm 1982 và Tuyên bố của các bên về các ứng xử ở Biển Đông năm 2002. Việt
Nam chủ trương giải quyết những vấn đề tranh chấp, tồn tại ở Biển Đông một cách
hoà bình nhưng cũng sẵn sàng thực thi những biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ
quyền biển đảo, bảo vệ lãnh hải và các vùng đặc quyền kinh tế.
Là
một quốc gia đang phát triển, giàu tiềm năng về biển, kinh tế biển trở thành
một ngành kinh tế chủ đạo. Việt Nam đang phấn đấu thực hiện mục tiêu phát triển
bền vững, gắn phát triển kinh tế với việc bảo vệ chủ quyền, an ninh đất nước;
phấn đấu đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp, một quốc gia mạnh về
biển, giàu lên từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển, góp phần
thực hiện thành công Chiến lược
biển Việt Nam mà Hội nghị lần thứ 4, Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá X đã đề ra. Chiến lược biển là
một chủ trương, quyết sách lớn, thể hiện tầm nhìn, bản lĩnh của dân tộc ta
trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Việt
Nam là một quốc gia có Truyền thống biển và có Văn hoá biển.
Biển là một thế giới rộng lớn, giàu tiềm năng nhưng cũng rất dễ bị tổn thương
do những tham vọng kinh tế, chính trị của các thế lực khu vực. Từ xa xưa, biển
từng là môi trường sống, môi trường phát triển kinh tế, tiếp giao văn hoá của
Việt Nam đồng thời là viễn cảnh của tương lai khu vực”./.
Bài viết rất hay, mọi người nên tham khảo
Trả lờiXóa