Chiến dịch Điện Biên Phủ là một
mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, kết thúc 9 năm kháng chiến
trường kỳ, anh dũng của Nhân dân ta chống thực dân Pháp, trở thành biểu tượng
của chủ nghĩa anh hùng và sức mạnh Việt Nam.
Điện
Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc,
gần biên giới Lào - Việt. Đối với đế quốc Pháp - Mỹ,
Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí
chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam
Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân rất lợi hại
trong âm mưu xâm lược của chúng ở vùng Đông Nam châu Á. Thấy rõ vị trí quan
trọng của Điện Biên Phủ, ngày 20/11/1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống
Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương.
Lực
lượng của địch ở Điện Biên Phủ gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh,
1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe vận tải có khoảng 200
chiếc và phi đội không quân thường trực có 14 chiếc. Tổng số binh lực là 16.200
tên. Chúng bố trí thành tập đoàn cứ điểm gồm 40 cứ điểm, tổ chức thành 8 cụm,
mỗi cụm cứ điểm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng. Tám cụm cứ điểm họp thành
ba phân khu, 80% lực lượng không quân ở Đông Dương và nhiều loại vũ khí hiện
đại khác của Pháp và Mỹ đã được đưa vào tác chiến ở Điện Biên Phủ. Để tăng
cường cho Điện Biên Phủ, thực dân Pháp đã tập trung hầu hết máy bay chiến đấu,
máy bay vận tải ở Đông Dương cho mặt trận. Đế quốc Mỹ tăng viện gấp cho Pháp
100 máy bay oanh tạc chiến đấu, 50 máy bay vận tải và cho Pháp mượn 29 máy bay
C119 có cả người lái; lập cầu hàng không chở dù từ Nhật và Mỹ sang mặt trận
Điện Biên Phủ. Đế quốc Mỹ còn đưa 2 tàu sân bay vào Vịnh Bắc Bộ diễn tập
"đổ bộ ào ạt vào Đông Dương".
Với số quân đông, hoả lực mạnh, công sự vững chắc, các
tướng tá Pháp và Mỹ xác nhận đây là "một tập đoàn cứ điểm đáng sợ",
"một pháo đài bất khả xâm phạm". Xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ hòng thực hiện ý đồ thu hút chủ lực ta để
tiêu diệt.
Thực
hiện quyết tâm của Bộ Chính trị Trung ương Đảng "tiêu diệt toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ", công
việc chuẩn bị cho chiến dịch được ráo riết tiến hành từ cuối năm 1953.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh Chỉ thị: "Chiến
dịch này là một chiến dịch quan trọng không những về quân sự mà cả về chính
trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy toàn quân, toàn
dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được". Trung ương Đảng
quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do đồng chí
Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Bộ Chính trị, trực tiếp làm Bí thư Đảng uỷ và Chỉ huy
trưởng mặt trận.
Với
khẩu hiệu "Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng”, Nhân dân ta đã dồn
hết sức người, sức của cho chiến dịch.
Để
bảo đảm chắc thắng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã có một quyết định mà ông cho
rằng khó khăn nhất trong cuộc đời cầm quân của ông đó là chuyển từ phương
châm "Đánh nhanh, thắng nhanh"
sang "Đánh chắc, tiến chắc". Để
thực hiện theo phương châm mới, Ông cho rút toàn bộ lực lượng đã triển khai về
vị trí tập kết tiếp tục làm công tác chuẩn bị. Đầu tháng 3/1954, công tác chuẩn
bị mọi mặt cho chiến dịch đã hoàn thành.
Ngày
13/3/1954, quân ta nổ súng mở đợt tiến công thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ. Sau 5 ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt nhanh gọn hai cứ điểm kiên cố
bậc nhất của địch (Him Lam và Độc Lập), sau đó, làm tan rã thêm một tiểu đoàn
địch và tiêu diệt cứ điểm Bản Kéo. Ta diệt và bắt sống 2.000 tên địch, bắn rơi
12 máy bay, mở thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm, uy hiếp sân bay Mường
Thanh, giáng một đòn choáng váng vào tinh thần binh lính địch.
Ngày
16/3/1954, địch cho 3 tiểu đoàn nhảy dù xuống tăng viện cho tập đoàn cứ điểm
Điện Biên Phủ.
Ngày
30/3/1954, ta mở đợt tiến công thứ hai đánh đồng loạt các ngọn đồi phía Đông
của phân khu trung tâm.
Đánh
vào khu đông, ta tiêu diệt 2.500 tên địch, chiếm lĩnh phần lớn các điểm cao
quan trọng ở phía đông, thực hiện từ trên đánh xuống, tạo thêm điều kiện chia
cắt, bao vây, khống chế địch, chuyển sang tổng công kích tiêu diệt địch.
Ngày 1/5/1954, ta mở đợt tiến công thứ ba. Quân ta lần
lượt đánh chiếm những cứ điểm còn lại ở phía Đông và phía Tây, bẻ gãy những
cuộc phản kích của địch.
Ngày
4/5/1954, địch thả tiểu đoàn dù dự bị cuối cùng xuống Điện Biên Phủ.
Ngày 7/5/1954, bộ đội ta phất cao cờ chiến thắng, tiến
thẳng vào sở chỉ huy địch, tướng Đờ Cáttơri (De Castries) và toàn bộ tham mưu
tập đoàn cứ điểm bị bắt sống.
Sau
56 ngày đêm chiến đấu vô cùng anh dũng, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã
toàn thắng. Ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch. Ta hy sinh 4.200 đồng
chí, mất tích 792 đồng chí, bị thương 9.118 đồng chí.
Ta
thu được 28 khẩu pháo, 5.915 khẩu súng lớn nhỏ, 3 xe tăng, 64 ô tô, 43 tấn dụng
cụ thông tin, 20 tấn thuốc quân y, 40 tấn đồ hộp, 40.000 lít xăng dầu, bắn rơi
62 máy bay các loại.
Đây
là chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn nhất của Quân đội
ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp, góp phần quyết định làm phá sản kế
hoạch Nava của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, là chiến thắng có ý nghĩa quyết
định đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, một chiến công vĩ đại
trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, cổ vũ phong trào chống chủ nghĩa
thực dân, giải phóng dân tộc trên thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi 9 năm kháng
chiến trường kỳ, anh dũng của Nhân dân ta. Điện Biên Phủ ghi một mốc son chói
lọi vào lịch sử dân tộc và thời đại, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh
hùng và sức mạnh Việt Nam./.
Lk sưu tầm và biên soạn.
Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 không những là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam mà còn cổ vũ phong trào chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc trên thế giới
Trả lờiXóa