Là người thầy, lãnh tụ, nhà tư tưởng vĩ đại của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động toàn thế giới, Các Mác (Karl Marx) sáng lập ra chủ nghĩa cộng
sản khoa học, chính trị học, kinh tế học và triết học Mác xít. Di sản của Các
Mác có giá trị trường tồn và sức sống bền vững trong lòng nhân loại tiến bộ và
nhân dân Việt Nam.
Giá trị trường tồn của học thuyết Các Mác
Giá trị
bao trùm, xuyên suốt, có ý nghĩa chi phối sự phát triển của nhân loại là trên
cơ sở tổng kết tri thức nhân loại. Dưới góc nhìn đó, Các Mác đã sáng lập ra chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, làm cho chủ nghĩa xã hội từ không
tưởng trở thành khoa học. Lý luận khoa học của Các Mác - một cương lĩnh chính
trị, lý luận có giá trị định hướng thời đại - đi vào phong trào công nhân,
trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho giai cấp vô sản và nhân
dân lao động thế giới, giúp họ nhận thức thế giới, đi tới cải tạo thế giới.
Những quan
điểm của Các Mác về vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công
nhân đáp ứng được đòi hỏi của lịch sử, dẫn đường cho giai cấp công nhân đấu
tranh và xây dựng đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản. Theo Các Mác, Đảng
Cộng sản và giai cấp công nhân có mối quan hệ mật thiết bằng sợi dây lợi ích
giữa Đảng với giai cấp. Đảng Cộng sản gồm những người kiên quyết nhất, triệt để
nhất, nắm rõ điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vô sản và luôn
luôn thúc đẩy phong trào vô sản tiến lên. Đảng Cộng sản ra đời làm cho phong
trào công nhân từ trình độ tự phát sang trình độ tự giác.
Từ những điều kiện thực tại của phong trào lịch sử giữa thế kỷ
XIX, Các Mác đã chỉ ra một cách rõ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật
triệt để, phép biện chứng về lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng
của giai cấp vô sản, một giai cấp hoàn toàn có khả năng sáng tạo ra xã hội mới.
Khẳng định vai trò to lớn, có tính tất yếu nhất thời về mặt lịch sử của sự phát
triển một lực lượng sản xuất đồ sộ do giai cấp tư sản tạo ra và nghiên cứu thấu
đáo mâu thuẫn cơ bản của lực lượng sản xuất ngày càng mang tính xã hội hóa cao
với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, dẫn
đến bóc lột công nhân, Các Mác chỉ ra rằng, chính giai cấp tư sản đã rèn vũ khí
và tạo ra đội quân sử dụng vũ khí ấy để chống lại nó, đó là những người vô sản.
Nguyên lý về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không
đơn thuần là câu chuyện về giai cấp và đấu tranh giai cấp như có người hiểu một
cách phiến diện, tầm thường. Xuất phát từ thực tế, nhận thức rõ quy luật khách
quan, Các Mác chỉ rõ sự ra đời hợp quy luật lịch sử của một xã hội mới thay thế
xã hội tư bản và động lực của quá trình đó lại chính do chủ nghĩa tư bản tạo
ra. Vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, như Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã
khẳng định: Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều
là tất yếu như nhau.
Các Mác chỉ ra rằng, giai cấp vô sản được giải phóng đồng nghĩa
với giải phóng toàn xã hội, giải phóng nhân loại, giải phóng con người với hàm
nghĩa “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người”. Đó chính là điểm nhấn rất quan trọng trong tư tưởng của
Các Mác về mối quan hệ giai cấp - dân tộc - nhân loại. Vấn đề nằm ở chỗ giai
cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên
thành giai cấp dân tộc, tức là đại diện cho lợi ích của dân tộc. Nhưng với bản
chất quốc tế, giai cấp vô sản còn đại diện cho lợi ích của nhân loại. Đây là
biểu hiện sáng ngời của một chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, mang bản chất khoa
học, cách mạng và nhân văn.
Tư tưởng vĩ đại của Các Mác bất diệt
Hơn một thế kỷ trôi qua từ thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917 dưới ánh sáng của chủ nghĩa Các Mác, nhân loại đã chứng kiến
biết bao biến đổi lớn lao và thăng trầm của lịch sử. Không ai có thể phủ nhận
vai trò của Liên Xô trong cuộc chiến tranh vĩ đại chống chủ nghĩa phát xít mà
ngọn cờ lãnh đạo thuộc về giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong là Đảng
Cộng sản. Không một thế lực nào có thể xem nhẹ sự phát triển của phong trào
giải phóng dân tộc và các phong trào đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, tiến bộ
của thế giới. Sự thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, cách mạng Cuba, cách mạng
Việt Nam và một số nước khác chứng tỏ giá trị, sức sống vĩ đại và ý nghĩa vạch
thời đại của học thuyết Các Mác.
Giá trị
lớn nhất nằm ở chiều sâu của khoa học và thực tiễn trong kho tàng vô giá của
học thuyết Các Mác, đôi khi bị người ta lãng quên hoặc nhận thức chưa đến nơi
đến chốn. Đó là giá trị sâu sắc, hoàn chỉnh về tính biện chứng của lịch sử; về
mối quan hệ giữa chiều hướng lịch sử khách quan, tất yếu và sự không bằng phẳng
của lịch sử, của hiện thực xã hội. Sức sống bền vững, ý nghĩa soi đường của học
thuyết Các Mác còn ở chỗ nó không phải là kinh thánh mà là kim chỉ nam cho hành
động, là mặt trời soi sáng con đường nhân loại đi tới hạnh phúc.
Nói cách
khác, để nhận thức đầy đủ, sâu sắc giá trị của tư tưởng Các Mác, phải hiểu được
mối quan hệ giữa nhận thức và hành động, giữa phương hướng và những việc làm cụ
thể qua thực tế. Một tư tưởng, một nguyên lý dù khoa học và cách mạng đến mấy,
nếu không được vận dụng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp từng lúc, từng nơi; nếu
không được áp dụng vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể trên một cơ sở hiện
thực nhất định với mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó, thì không thể thành
công, thậm chí thất bại.
Sức sống
bền vững, giá trị cơ bản, đích thực của Các Mác không phải ở chỗ cung cấp những
lời giải đáp có sẵn cho mọi vấn đề của thực tiễn hôm nay mà chính là ở chỗ phản
ánh khái quát quy luật vận động khách quan của lịch sử; chỉ ra phương thức để
đi đến được cái đích cuối cùng của tiến trình cách mạng không ngừng là xây
dựng, sáng tạo một xã hội mới về mọi phương diện, giải phóng loài người khỏi
mọi hình thức tha hóa. Muốn thực hiện được điều đó, giai cấp vô sản mỗi nước,
xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể, phải hoàn thành nhiệm vụ từng
bước, từng lúc, từng nơi, trên cơ sở biết vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát
triển chủ nghĩa Các Mác.
Nhận thức
một cách biện chứng, khoa học về mặt lý luận thì phải hiểu rằng, lịch sử thế
giới không bao giờ là một con đường thẳng tắp, bằng phẳng, mà có những khúc
quanh. Để xác lập được địa vị của mình, giai cấp tư sản phải mất hai, ba thế kỷ
từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời vào thế kỷ XV. Cách mạng xã hội chủ nghĩa càng
như vậy. Bởi vì cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng toàn diện nhất,
sâu sắc nhất, triệt để nhất; thay đổi cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Điều đó
cho thấy rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tuy
là điều bất ngờ, một tổn thất vô cùng to lớn, nhưng đó là sự sụp đổ của một mô
hình chủ nghĩa xã hội cụ thể. Sự tan rã là do Đảng Cộng sản ở các nước đó xa
rời nguyên lý của chủ nghĩa Các Mác. Đó hoàn toàn không phải là sự sụp đổ của
chủ nghĩa Các Mác, không bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa xã hội khoa học mà
ông đề ra. Xem xét một cách biện chứng, khoa học thì phải coi sự sụp đổ của
Liên Xô là “lùi một bước ngắn để tiến những bước dài hơn”. Tư tưởng của Các Mác
vẫn giữ nguyên giá trị thời đại, đích thực, sâu xa, bền vững, vì nó hướng tới
tương lai.
Thành tựu
của cách mạng nước ta trong hơn 90 năm qua kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời, đặc biệt qua gần 35 năm đổi mới là nhờ chúng ta biết vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Dưới ánh sáng khoa học và cách mạng của
học thuyết Các Mác, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm sáng
tỏ nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
phù hợp với thực tiễn của nước ta và xu thế phát triển của thế giới. Bài học
lớn đầu tiên của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Điều đó chứng tỏ tư tưởng vĩ đại của Các Mác là bất diệt!
Nội dung bài viết rất hữu ích, cảm ơn tác giả
Trả lờiXóa