Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
mà đỉnh cao là Đại thắng mùa xuân 1975, là bản thiên anh hùng ca vĩ đại của chiến
tranh nhân dân trong thời đại Hồ Chí Minh, như một kỳ tích, một huyền thoại mang tầm
vóc thời đại ở thế kỷ XX, đồng thời cũng là một trong những trang
vàng chói lọi trong lịch sử đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập, hoà
bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đó là sự thật không gì có thể xuyên tạc và phủ
nhận được. Thế mà, hơn bốn thập kỷ qua, hàng năm cứ đến dịp kỷ niệm Ngày
chiến thắng 30/4, thì trên một số trang mạng xã hội, hay một số sách, báo ở
nước ngoài lại xuất hiện những bài viết xuyên tạc, bóp méo sự thật để phủ nhận
giá trị lịch sử Ngày chiến thắng.
Nực cười thay, thời gian gần đây, trên
một số website, blog cá nhân vẫn còn có những kẻ hoặc là có tư tưởng thù địch,
hận thù, hoặc là thiển cận về chính trị, hay vì “đầu óc nô lệ” đã không thể
hoặc không muốn thừa nhận thắng lợi vĩ đại đó của dân tộc ta. Họ đưa ra những “sử
liệu” thiếu căn cứ, không biết lấy ở đâu ra, nhào nặn một cách chủ quan rồi hồ
đồ đi đến những nhận định sai trái, xuyên tạc bản chất cuộc chiến tranh, như:
người Mỹ can thiệp vào Việt Nam là để giải phóng chứ không phải để cai trị, họ
không muốn cai trị người Việt Nam; chiến tranh Việt Nam là cuộc “nội chiến”
huynh đệ tương tàn giữa hai miền Nam - Bắc do sự khác biệt về ý thức hệ. Từ đó,
họ đi đến kết luận phản khoa học: cuộc chiến tranh Việt Nam thực chất là “không
cần thiết” và hoàn toàn “có thể tránh khỏi”. Họ còn hạ thấp ý nghĩa chiến thắng
30.4.1975 với lý lẽ cho rằng khi đó Mỹ đã bỏ rơi chính quyền và quân đội Việt
Nam Cộng hoà…
Một lần nữa, chúng ta khẳng định: Đây là thắng lợi vĩ đại
của cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tai sai bán nước; những luận điệu
trên là vô căn cứ, hoàn toàn sai trái, xuyên tạc, phủ nhận sự thật lịch sử một
cách trắng trợn và lố bịch với động cơ chính trị xấu xa, tư tưởng hận thù đã
quá lỗi thời, lạc hậu.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, mục tiêu
chiến lược của Mỹ là quét sạch chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam và Đông Dương,
biến nơi đây thành thuộc địa - một bàn đạp chiến lược để Mỹ thực hiện mưu đồ bá
chủ thế giới. Theo các tài liệu của chính quyền Mỹ, ngày 27.9.1948, trong một
văn kiện của Bộ Ngoại giao Mỹ đã xác định mục tiêu lâu dài của Mỹ: “thủ tiêu ở
mức tối đa có thể được ảnh hưởng của cộng sản ở Đông Dương, Mỹ muốn thấy Việt Nam
và Đông Dương có một nhà nước dân tộc chủ nghĩa tự trị thân Mỹ”... Các đời tổng
thống Mỹ Truman, Eisenhower đến Kennedy đều luôn coi Đông Dương là một bộ phận
cần thiết của chính sách ngăn chặn: “một bức tường thành quan trọng trong chiến
tranh lạnh”; “Mất Việt Nam sẽ dẫn đến nguy cơ mất cả Đông Dương, tương tự như
sự sụp đổ của các quân bài domino”.
Để thiết lập chế độ thực dân mới ở Việt
Nam, ngay từ những năm 50 của thế kỷ XX, Mỹ ra sức viện trợ quân sự, “hà hơi”
tiếp sức cho thực dân Pháp, sau đó từng bước hất cẳng Pháp để chiếm đóng Việt
Nam, độc chiếm Đông Dương. Thống kê của Bộ Quốc phòng Mỹ, tính tới khi Pháp
thua trận ở Đông Dương vào năm 1954, 78% chiến phí là do Mỹ chi trả. Trong hồi
ký của mình, Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương - tướng Navarre buộc phải
thừa nhận: “Địa vị của chúng ta đã chuyển thành địa vị của một kẻ đánh thuê đơn
thuần cho Mỹ”.
Sau năm 1954, Mỹ thay Pháp xâm lược
Việt Nam. Trong suốt 21 năm chiến tranh, Mỹ đã thay đổi 5 chiến lược quân sự
khác nhau; đã huy động tới hơn nửa triệu quân, cùng hàng vạn quân đồng minh làm
chỗ dựa cho quân nguỵ; Mỹ đã sử dụng tất cả những vũ khí, kỹ thuật quân sự tiên
tiến nhất (trừ vũ khí hạt nhân), nhằm khuất phục Việt Nam. Ở chiến trường miền
Nam, Mỹ đã cùng một lúc thực thi ba kiểu chiến tranh: “chiến tranh giành dân”,
“chiến tranh bóp nghẹt”, “chiến tranh huỷ diệt” ác liệt và dã man chưa từng có.
Mỹ đã biến Việt Nam thành đất nước bị ném bom nhiều nhất trên thế giới với hơn
7,8 triệu tấn, gấp hơn 3 lần số bom, đạn Mỹ sử dụng trong chiến tranh thế giới
thứ hai và gấp 12 lần so với chiến tranh Triều Tiên. Mỹ đã rải xuống miền Nam
Việt Nam khoảng 85 triệu lít chất độc hoá học, hậu quả là hơn một nửa diện tích
rừng của Việt Nam đã bị thiêu rụi và di chứng của chất độc tàn ác này đến nay
vẫn đang hành hạ hàng vạn gia đình người dân Việt Nam. Mỹ đã tiêu tốn 676 tỷ
USD cho cuộc chiến tranh Việt Nam, đưa chiến tranh Việt Nam trở thành một trong
những cuộc chiến “đắt tiền” nhất trong lịch sử nước Mỹ (và cũng là của thế
giới). Phải chăng, Mỹ mang đội quân hùng hậu với khối lượng khổng lồ vũ khí,
phương tiện chiến tranh hiện đại, tiêu tốn khoản ngân sách rất lớn cho xâm lược
Việt Nam lại không vì lợi ích của mình, mà vì lợi ích của Việt Nam. Câu trả lời
hiển nhiên là: không bao giời và sẽ không bao giờ có điều đó. Các đời tổng
thống Mỹ từ Truman, Eisenhower đến Kennedy đều luôn coi Đông Dương là một bộ
phận cần thiết của chính sách ngăn chặn - “một bức tường thành quan trọng trong
chiến tranh lạnh”. “Mất Việt Nam sẽ dẫn đến nguy cơ mất cả Đông Dương, tương tự
như sự sụp đổ của các quân bài domino”.
Để thúc ép Thiệu ký vào Hiệp định,
Nixon không ngần ngại ám chỉ về việc đảo chính lật đổ Thiệu. Kết quả là, Thiệu
đã ngoan ngoãn vâng lời Mỹ đặt bút ký vào Hiệp định Paris ngày 27/01/1973, mở
đường cho sự thất bại của chính quyền Sài Gòn chỉ hai năm sau đó. Trong cuốn
“Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và hồ sơ Lầu Năm
Góc”, giáo sư sử học nổi tiếng Daniel Ellsberg của Mỹ, viết: “Không có chiến
tranh Đông Dương thứ nhất và thứ nhì, chỉ có một cuộc xung đột nối tiếp trong
một phần tư thế kỷ. Dùng ngôn từ thực tế, đứng về một phía (Mỹ), ngay từ đầu nó
đã là một cuộc chiến của Mỹ: mới đầu là Pháp - Mỹ, sau đến toàn là Mỹ....”.
Như vậy, chứng cứ lịch sử đã quá rõ để
khẳng định: Về bản chất, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt
Nam là cuộc đối đầu giữa nhân dân Việt Nam chống lại đế quốc Mỹ xâm lược và tay
sai nhằm giành độc lập, tự do cho dân tộc, thống nhất đất nước. Đó hoàn toàn
không phải là cuộc “nội chiến” giữa hai miền Nam - Bắc do xung đột về ý thức hệ
như các luận điệu xuyên tạc lịch sử đang lặp đi, lặp lại.
Sự thật lịch sử
cũng bác bỏ luận điệu xuyên tạc rằng: “Đại thắng mùa Xuân 1975” là một chiến
thắng tự nhiên mà có, khi ngụy quyền, ngụy quân Việt Nam Cộng hoà bị quan thầy Mỹ
bỏ rơi. Mọi người đều rõ, năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã bước
vào giai đoạn quyết định. Ở miền Nam, bằng cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè
năm 1972, quân và dân ta liên tục giành những thắng lợi lớn, đẩy chiến lược
“Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ đến bờ vực sụp đổ hoàn toàn. Đồng thời, dư
luận trong nước và nhân loại tiến bộ trên thế giới kịch liệt lên án, đòi chấm
dứt chiến tranh ở Việt Nam, chính quyền Mỹ buộc phải tìm cách thoát ra khỏi
cuộc chiến tranh bằng con đường ngoại giao. Để xoay chuyển cục diện chiến tranh
và giành lợi thế trên bàn đàm phán, Tổng thống Nixon đã đi một nước cờ liều
lĩnh, đầy mạo hiểm - sử dụng máy bay B.52 - “siêu pháo đài bay, thần tượng của
không lực Mỹ” tiến hành tập kích đường không nhằm đưa miền Bắc Việt Nam “vào
thời kỳ đồ đá”. Nhưng, thảm bại nhục nhã trên bầu trời Hà Nội đã đánh gục ý chí
xâm lược và nỗ lực leo thang chiến tranh lớn nhất của Mỹ, là cú “nốc-ao” quyết
định buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris, rút quân về nước.
Trong cuốn sách “Không còn những Việt
Nam nữa”, cựu Tổng thống Mỹ Nixon đã viết đầy cay đắng: “Trong lịch sử nhân
loại chưa hề có một quốc gia nào chiếm ưu thế hơn hẳn về vũ khí như Hoa Kỳ so
với Bắc Việt Nam. Hoa Kỳ, một cường quốc hạt nhân, có 180 triệu dân, với GDP
hơn 500 tỷ đôla và một quân đội đông hơn 1 triệu người, chống lại một nước nhỏ
bé 16 triệu dân, GDP không đến 2 tỷ đô la, với một đội quân chỉ có khoảng 25
vạn người... Đỉnh cao của cuộc leo thang chiến tranh ở Việt Nam là đợt chúng ta
đưa B52 ném bom Hà Nội, Hải Phòng vào dịp lễ Noel năm 1972. Nhưng chúng ta đã
thất bại và buộc phải ký Hiệp định Paris... Thất bại ở Việt Nam là thảm hoạ lớn
đối với nước Mỹ. Từ nay không còn ai muốn có những Việt Nam nữa”.
Sự
thật lịch sử cũng chỉ ra rằng, nhân dân Việt Nam giành được thắng lợi trong
cuộc chiến tranh khốc liệt và tàn ác do đế quốc Mỹ gây ra không phải dễ dàng mà
phải chịu nhiều đau thương, mất mát, hơn 3 triệu đồng bào, chiến sĩ của ta đã
ngã xuống; hàng ngàn làng mạc, thành phố đã bị tàn phá nặng nề; đến nay nhiều
di chứng của cuộc chiến tranh vẫn dai dẳng tồn tại chưa thể khắc phục xong. Có
nhiều nguyên nhân tạo nên chiến thắng nhưng nguyên nhân chủ yếu mang tính quyết
định là nhờ Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước,
giương cao ngọn cờ chính nghĩa, đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo và khát
vọng hòa bình của nhân dân ta. Đó cũng là thắng lợi của bạn bè, các lực lượng
tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam
trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, đỉnh cao là Chiến thắng
30/4/1975 - một sự thật lịch sử quá rõ ràng, không thể phủ nhận, mập mờ lẫn lộn
trắng đen. Thế nhưng vẫn có những kẻ cố tình xuyên tạc, phủ nhận thắng lợi vĩ
đại đó. Về điều này, chính cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Namara đã công khai
thừa nhận trong cuốn hồi ký “Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học
về Việt Nam”: “Chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp”. Đây là lời thú nhận
thất bại chưa từng có trong lịch sử nước Mỹ. Còn nhà báo E-uyn Knon, cuốn sách
“Cuộc chiến bịp bợm của Mỹ” đã vạch rõ: dã tâm xâm lược Việt Nam với những thủ
đoạn chiến tranh hết sức tàn bạo, thể hiện bản chất hiếu chiến, phi nghĩa, vô
nhân đạo của chủ nghĩa đế quốc; đồng thời, chỉ rõ Mỹ đã vấp phải ý chí quật
cường, sức mạnh đoàn kết của cả một dân tộc, với nghệ thuật tổ chức và lãnh đạo
chiến tranh nhân dân tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ xâm lược là một trong những giá trị cao cả của dân tộc ta trong thế kỷ
XX. Đúng như Đại hội IV của Đảng nhận định: “… thắng lợi của nhân dân ta trong
sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một
trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới
như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế
to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Chiến tranh đã lùi xa 42 năm, Đảng,
Nhà nước và nhân dân Việt Nam với truyền thống nhân nghĩa, yêu chuộng hòa bình
nên đã sẵn sàng khép lại quá khứ để hướng tới tương lai. Nhưng điều đó
không có nghĩa chúng ta quên đi quá khứ; quên đi sự tàn bạo, phi nhân
tính, tội ác của kẻ thù đã gây ra cho nhân dân Việt Nam và càng không cho
phép bất cứ ai, với danh nghĩa gì để xuyên tạc, bóp méo giá trị của chiến thắng
lịch sử này. Từ đó, một mặt chúng ta phải khẳng định mạnh mẽ giá trị, ý
nghĩa và tầm vóc lịch sử của Chiến thắng 30/4/1975, giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc; mặt khác kiên quyết đấu tranh, phê
phán những kẻ xuyên tạc với mưu đồ đen tối, thâm độc và những ngộ nhận,
mơ hồ trong sự nhìn nhận, đánh giá sự thật lịch sử này.
Những quan điểm cố tình đánh tráo bản
chất của cuộc chiến, phủ nhận, hạ thấp ý nghĩa chiến thắng của nhân dân ta chủ
yếu nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, phủ
nhận sự hy sinh, đóng góp của nhân dân và quân đội ta ở cả hai miền Nam - Bắc,
của bạn bè quốc tế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt
Nam; đồng thời còn nhằm kích động các phần tử chống đối, lực lượng tay sai,
phản động chống phá cách mạng Việt Nam. Nhưng, sự thật lịch sử thuộc về chúng
ta và chắc chắn âm mưu thâm độc đó của các thế lực thù địch sẽ bị vạch mặt và
làm thất bại./.
Dân quân
Đại thắng mùa Xuân 1975 được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang sử chói lọi nhất, biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.
Trả lờiXóa