Giúp dư
luận trong và ngoài nước hiểu rõ bản chất, mục đích của công tác đối ngoại quốc
phòng, nhất là trong tình hình quốc tế phức tạp hiện nay, là cách để chúng ta
phản bác lại các quan điểm sai lệch hoặc cố tình "bóp méo" đường lối,
chủ trương đối ngoại của Đảng và Nhà nước cũng như chính sách quốc phòng của
Việt Nam.
Trước
hết, Việt Nam có quan điểm, chủ trương hết sức rõ ràng đối với chính sách đối
ngoại nói chung và đối ngoại quốc phòng nói riêng.
Trong đó, Đại hội XIII của Đảng đã xác định những nguyên tắc nền tảng của công
tác đối ngoại thời kỳ đổi mới là: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương
hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình
đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối
tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
Đối với
các vấn đề quốc tế và trong triển khai các hoạt động đối ngoại quốc phòng, Việt
Nam luôn nhất quán quan điểm và dựa vào các nguyên tắc này.
Nhân nói
về chính sách quốc phòng, gần đây, một số tổ chức, cá nhân phản động, bất mãn
đã lợi dụng các sự kiện nóng của quốc tế và phản ứng của Việt Nam, các hoạt
động đối ngoại của lãnh đạo Quân đội để xuyên
tạc đường lối đối ngoại của Việt Nam. Chẳng hạn, họ nói một cách ẩn ý rằng,
trong bối cảnh cuộc xung đột Nga-Ukraine đang diễn ra, Việt Nam đẩy mạnh hợp
tác quốc phòng với Nga thực chất là đi với nước này chống nước kia.
Về vấn đề này, Sách
trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 đã chỉ rõ chính sách quốc phòng “4 không”,
đó là: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống
nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để
chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan
hệ quốc tế. Gần đây nhất, phát biểu khi chủ trì phiên họp thứ nhất Ban chỉ đạo
xây dựng Đề án tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính
trị về hội nhập quốc tế diễn ra ngày 2-8 vừa qua, Thủ tướng Phạm
Minh Chính một lần nữa khẳng định Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách quốc
phòng “4 không” nói trên.
Trước đó, chia sẻ khi đến thăm
Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế Mỹ (CSIS) trước thềm Hội nghị cấp
cao đặc biệt ASEAN-Hoa Kỳ tại Washington vào tháng 5-2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng nêu rõ rằng: Trong một
thế giới đầy biến động, cạnh tranh chiến lược và nhiều sự lựa chọn, Việt Nam
không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng,
công lý và lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương
Liên hợp quốc; bình đẳng, tất cả cùng có lợi, cùng thắng.
Qua đó để thấy,
việc lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam đến thăm hoặc tham dự các diễn đàn, sự
kiện tại Nga hay bất cứ quốc gia nào khác là nhằm tăng cường giao lưu, hợp tác
trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đồng thời đóng góp và kiến tạo hòa bình.
Đây là điều hết sức bình thường, hoàn toàn phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ của
công tác đối ngoại mà Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra, cũng
như xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Sau một thời gian bị ảnh hưởng bởi
đại dịch Covid-19, các nội dung hợp tác dồn lại nhiều nên hoạt động thăm viếng,
tiếp xúc, trao đổi và hợp tác thậm chí sẽ còn được đẩy mạnh và diễn ra sôi động
hơn.
Xuyên tạc, cổ xúy
cho tư tưởng Việt Nam “tham gia liên minh” hay quy chụp Việt Nam “đi với nước
này chống nước kia” thực chất chỉ là quan điểm mang tính chống phá, cố tình
hiểu sai bản chất vấn đề của một số cá nhân, tổ chức nhằm mục đích hạ thấp uy
tín, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước.
Thực tế cũng chứng
minh đối ngoại quốc phòng đã góp phần to lớn vào thực hiện kế sách bảo vệ Tổ
quốc từ xa, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh và xung đột. Thông qua đẩy mạnh, mở
rộng quan hệ về quân sự, quốc phòng, chúng ta có thêm điều kiện để giữ vững an
ninh trên bộ, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và tăng cường tiềm lực quốc
phòng để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước, cùng các quốc gia và đối tác quốc
tế giải quyết các thách thức an ninh chung.
Một trong những ví
dụ điển hình cho những lợi ích mà đối ngoại quốc phòng mang lại đó là bảo vệ an
ninh, thúc đẩy hợp tác hữu nghị ở biên giới trên bộ giữa Việt Nam và các nước
láng giềng. Kể từ khi lần đầu tiên được tổ chức tại tỉnh Quảng Ninh (Việt Nam)
và tỉnh Quảng Tây (Trung
Quốc) vào tháng 3-2014, đến nay, Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới
Việt Nam-Trung Quốc đã trải qua 7 kỳ giao lưu với nội dung ngày càng thiết thực
và có chiều sâu hơn. Song song với các cuộc gặp gỡ giữa lãnh đạo quân đội hai
nước ở khu vực biên giới là các hoạt động tặng quà, xây trường học, xây nhà văn
hóa, khám, chữa bệnh miễn phí cho người dân hai bên... Cùng với đó, sau mỗi lần
giao lưu, công tác quản lý và bảo vệ biên giới, hợp tác cửa khẩu, kinh
tế-thương mại biên giới, đấu tranh phòng, chống tội phạm, tuần tra chung... cũng
được đẩy mạnh.
Đó không phải là
những cuộc giao lưu mang tính phô trương, hình thức hay “làm màu” như một số
đối tượng rêu rao, mà đã đem lại những hiệu quả to lớn, giúp khu vực biên giới
trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc duy trì ổn định, an ninh trật tự được
bảo đảm, hệ thống mốc quốc giới được giữ vững; đồng thời đẩy mạnh các hoạt động
hợp tác giữa nhân dân khu vực giáp biên cũng như lực lượng bảo vệ biên giới hai
nước. Chẳng thế mà sau thành công của các chương trình giao lưu biên giới
với Trung Quốc, vài năm trở lại đây, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã phối hợp với các
nước bạn nhân rộng mô hình này thông qua việc lần lượt tổ chức Giao lưu hữu
nghị quốc phòng biên giới với Lào và Campuchia. Ngay trong năm nay sẽ diễn ra
Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam-Lào-Campuchia cấp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lần thứ nhất và Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên
giới Việt Nam-Trung Quốc lần thứ 8.
Rõ ràng, đối ngoại
quốc phòng đã giúp biên giới không chỉ đơn thuần đóng vai trò xác định ranh
giới lãnh thổ giữa Việt Nam và các nước mà trở thành không gian để hợp tác,
thúc đẩy phát triển kinh tế, giao lưu nhân dân ở khu vực biên giới. Hơn thế
nữa, ở từng thời điểm khác nhau, các hoạt động hợp tác, đối ngoại quốc phòng
những năm qua đã góp phần quan trọng vào việc thu hẹp khác biệt, giải quyết bất
đồng, “tăng nốt thăng, giảm nốt trầm” trong quan hệ ngoại giao với một số nước.
Dĩ nhiên, việc phát triển các mối quan hệ quân sự, quốc phòng tới tầm mức nào
còn phụ thuộc vào khả năng, nhu cầu của Việt Nam và từng quốc gia, tùy thuộc
vào tình hình cụ thể.
Bất luận ai cố tình
phán sai, nói lệch thế nào, các hoạt động đối ngoại quốc phòng mà Quân đội nhân
dân Việt Nam đã và đang triển khai vẫn là tấm gương phản chiếu chính sách quốc
phòng vì hòa bình, tự vệ, hợp tác và phát triển.
Phải thẳng thắn đấu tranh với những quan điểm sai trái, những suy nghĩ lệch lạc để xây dựng và phát triển đất nước
Trả lờiXóa